Đề tài Thực hiện pháp luật về giám sát của Quốc hội- Thực trạng và vấn đề đặt ra
- Người chia sẻ :
- Số trang : 9 trang
- Lượt xem : 6
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực hiện pháp luật về giám sát của Quốc hội- Thực trạng và vấn đề đặt ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Theo Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 và các văn bản pháp luật có liên quan, để thực hiện chức năng giám sát của mình, Quốc hội phải sử dụng các hình thức giám sát như giám sát các văn bản quy phạm pháp luật, xét báo cáo, chất vấn, thành lập đoàn giám sát tại địa phương và giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân và kiến nghị của cử tri. Trên thực tế, khi tiến hành các hoạt động giám sát, Quốc hội, đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và các cơ quan của Quốc hội chưa thực hiện có hiệu quả các hình thức giám sát nêu trên, đồng thời chưa có sự kết hợp các hình thức giám sát. Các hoạt động giám sát thường được tiến hành một cách biệt lập nên Quốc hội chưa phát huy được những hình thức giám sát pháp luật cho phép để thực hiện hoạt động giám sát một cách có hiệu quả nhất. Những hình thức giám sát và phương pháp giám sát này đã bộc lộ những tồn tại sau: Về hình thức chất vấn của đại biểu Quốc hội – Trong các kỳ họp, không phải ĐBQH nào cũng thực hiện hình thức chất vấn mà chỉ có khoảng 20% đến 25% số ĐBQH sử dụng quyền này. Thậm chí còn có nhiều ĐBQH suốt cả nhiệm kỳ không sử dụng hình thức chất vấn này một lần nào. Hơn nữa, khi thực hiện hình thức chất vấn, có nhiều ĐBQH không có kỹ năng chất vấn nên còn lúng túng trong phương pháp thực hiện quyền chất vấn, như: phương pháp tranh luận như thế nào, đối thoại sử dụng ra sao? Ngoài ra, giữa hai kỳ họp của Quốc hội, số lượng các ĐBQH gửi chất vấn đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) để UBTVQH chuyển chất vấn đến những cá nhân và những cơ quan bị chất vấn rất ít, thường có khoảng 5 đến 10 chất vấn, cũng có khi không có chất vấn nào. Trong thời gian gần đây, số lượng chất vấn giữa hai kỳ họp Quốc hội giảm đáng kể. Thực tiễn này đã không đáp ứng được tính chất thường xuyên, liên tục của hoạt động chất vấn. – Các ĐBQH chưa thực hiện đúng các quy định pháp luật về hoạt động chất vấn. Điều này thể hiện ở chỗ: trường hợp không đồng ý với nội dung trả lời chất vấn thì ĐBQH có quyền đề nghị Quốc hội tiếp tục thảo luận tại phiên họp đó, đưa ra thảo luận tại phiên họp khác của Quốc hội hoặc kiến nghị Quốc hội xem xét trách nhiệm đối với người bị chất vấn[1]. Hoặc đối với trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước UBTVQH hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản[2]. Song trên thực tế, các ĐBQH không đồng ý với trả lời chất vấn, nhưng cũng không thực hiện quyền đề nghị Quốc hội tiếp tục thảo luận hoặc tiến hành các hoạt động điều tra để xác định trách nhiệm của người trả lời chất vấn. Thực trạng này cho thấy, mặc dù đã có quy định của pháp luật và hoạt động chất vấn có tăng lên về số lượng, nhưng chất lượng vẫn chưa có nhiều chuyển biến. – Hoạt động chất vấn của ĐBQH và hoạt động trả lời chất vấn tại phiên họp Quốc hội không được Quốc hội đánh giá bằng hình thức “ra nghị quyết”, do đó, nhân dân cũng không có cơ sở để đánh giá, nên không thấy hết tác dụng của hoạt động chất vấn, chất vấn vì thế đáng ra là một công cụ hữu hiệu nhưng trong thực tiễn lại chưa được thể hiện hết công dụng của nó.
