Đề tài Đảm bảo sự thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia và quốc tế ở Việt Nam
- Người chia sẻ :
- Số trang : 28 trang
- Lượt xem : 8
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đảm bảo sự thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia và quốc tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Trước hết cần khẳng định sự thống nhất về nguyên tắc giữa văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) quốc gia và quốc tế [1], bởi lẽ ý chí quốc gia, vào một thời điểm cụ thể, đã được thể hiện trong việc quyết định về sự ràng buộc của quy phạm, quốc tế hay quốc gia, thông qua sự tham gia của cùng một hệ các cơ quan quyền lực. Một quy định quốc tế không thể được thi hành nếu không có cơ chế đảm bảo thực thi trong pháp luật quốc gia. Công cụ thực chứng và hiện thực hoá sự nhất trí giữa các quốc gia về hành vi ứng xử chính là các QPPL quốc tế. Trong bối cảnh đó, sự thống nhất mang tính chất bản hữu giữa VBQPPL quốc gia và quốc tế ngày càng được minh chứng và trở nên một đòi hỏi khắt khe hơn. Vậy có gì đặc biệt khi đặt vấn đề về sự thống nhất giữa VBQPPL quốc gia và quốc tế? Về mặt lý luận, cách tiếp cận của mỗi quốc gia về vị trí của pháp luật quốc tế có khác nhau. Hệ quả cuối cùng của mỗi cách tiếp cận sẽ để lại dấu ấn trong thưc tế quốc gia thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình. Cần hiểu rằng, chỉ dừng lại ở pacta sunt servanda [2], pháp luật quốc tế hầu như đơn phương mặc định VBQPPL quốc gia phải tự điều chỉnh để làm sao thực hiện được các nghĩa vụ đã cam kết. Về mặt thực tiễn, đảm bảo sự thống nhất nội tại giữa các VBQPPL quốc gia đã là một vấn đề khó, yêu cầu như vậy đối với VBQPPL quốc gia với VBQPPL quốc tế còn khó hơn. Những ai được đào tạo những kiến thức cơ bản về luật đều hiểu rằng pháp luật quốc tế và quốc gia là hai hệ thống quy phạm được soạn thảo, ban hành, với cơ chế đảm bảo thực thi, và, trong một chừng mực nào đó, cả phạm vi tác động đến lợi ích quốc gia nói chung và lợi ích của các chủ thể tham gia trực tiếp nói riêng, theo quy trình và thủ tục khác nhau. Thoạt nhìn có thể thấy ở Việt Nam, việc đảm bảo để VBQPPL quốc gia phù hợp với VBQPPL quốc tế được pháp luật nội dung điều chỉnh trên cả hai phương diện. Một mặt, có quy định thẩm định, thẩm tra và một số cơ chế khác nhằm làm cho một VBQPPL quốc gia được ban hành phù hợp với các nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam. Mặt khác, yêu cầu tương tự cũng được đặt ra đối với quá trình ký kết, thực hiện điều ước quốc tế. Chúng ta cũng bước đầu có quy định xử lý mâu thuẫn trong trường hợp không may lại xảy ra như vậy. Bài viết phân tích một số khía cạnh lý luận và thực tiễn của việc đảm bảo sự thống nhất giữa VBQPPL quốc gia và quốc tế ở Việt Nam. Trên cơ sở khẳng định sự thống nhất về nguyên tắc giữa hai hệ quy phạm, Bài viết cho rằng thực tiễn phát sinh mâu thuẫn giữa chúng bắt nguồn từ sự khác nhau trong quan điểm hành xử, phương thức xác lập cũng như cơ chế đảm bảo thi hành quy phạm ở mỗi quốc gia. Đây là vấn đề chung của tất cả các nước ở mọi trình độ phát triển kinh tế, xã hội và pháp luật. Quy định hiện hành đảm bảo sự thống nhất giữa VBQPPL quốc gia và quốc tế ở Việt Nam nhìn chung đã bắt đầu được chuẩn hoá trong pháp luật thực định nhưng để hiện thực hoá chúng thì còn nhiều việc phải làm. Chúng ta hầu như còn bỏ ngỏ cơ chế giải quyết khi mâu thuẫn phát sinh trên thực tế đối với từng quy phạm. Ngoài các phần Mở đầu (I) và Kết luận (V), Bài viết gồm ba phần chính. Trên cơ sở khẳng định sự thống nhất giữa các QPPL quốc gia và quốc tế, Phần II cho rằng cách thức xác lập quy phạm cũng như phương thức tiếp cận của mỗi quốc gia về vị trí của VBQPPL quốc tế dẫn đến khó khăn thực tế trong việc đảm bảo sự thống nhất giữa hai hệ thống pháp luật. Phần III phân tích quy định và thực tiễn bảo đảm sự thống nhất được quy định trong pháp luật Việt Nam, với lập luận chính là về phương diện xây dựng VBQPPL quốc gia, tính quy phạm của quy định hiện hành về mức độ phù hợp của pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế chưa cao; khả năng thực tế của các cơ quan Việt Nam trong cả giai đoạn “tiền kiểm” và “hậu kiểm ” các quy định quốc gia và quốc tế chưa đáp ứng được đòi hỏi hiện nay. Phần IV đề cập đến quy trình điều chỉnh khi phát sinh mâu thuẫn giữa các quy phạm pháp luật quốc gia và quốc tế, trong đó có vấn đề hiệu lực ưu tiên và áp dụng trực tiếp các QPPL quốc tế. Kết luận và một số nhận xét được nêu tại Phần V.
