Đề tài Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ theo quy định của pháp luật Việt Nam

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 93 trang
  • Lượt xem : 8
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ theo quy định của pháp luật Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Phát triển của giao lưu thương mại nhằm bảo vệ quyền của chủ sở hữu đối với các đối tượng SHCN. Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp vẫn không ngừng vận động và phát triển theo hướng mở rộng cácquyền năng cho chủ sở hữu, mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ. Vấnđề bảo hộ SHCN không chỉ là vấn đề riêng lẻ của từng quốc gia mà nó chính là vấn đề mang tính toàn cầu trong bối cảnh tự do hóa, toàn cầu hóa thương mại hiện nay. Nền kinh tế Việt Nam có một bước ngoặt được đánh dấu bằng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tháng 12/1986 trong đó Đảng và Nhà nước ta đã dứt khoát xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu hành chính, bao cấp, chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủnghĩa. Quá trình đổi mới về kinh tế đã ngày càng chứng tỏ nền kinh tế nước ta đã và đang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lúc này, các doanh nghiệp cũng dần có được quyền bình đẳng trong hoạt động kinh doanh với môi trường cạnh tranh lànhmạnh. Tình hình này cũng làm giảm đáng kể sự độc quyền, sự độc quyền chỉ còn tồn tại đâu đó trong một số ngành cung cấp có tính chất đặc biệt còn hầu hết là sự phong phú của hàng hóa, dịch vụ được tạo ra bởi các thành phần kinh tế khác nhau. Do vậy, người tiêu dùng đang dần trở thành “thượng đế”theo đúng nghĩa của nó. Hàng hóa đa dạng, dịch vụ phong phú cũng khiến các doanh nghiệp để mời được “thượng đế” đến với mình buộc phải coi trọng và có sự thay đổi liên mục mẫu mã, chủng loại hàng hóa của mình trên thị trường nhưng đồng thời chữ tín ngày càng được các doanh nghiệp quan tâm xây dựng dựa vào các thương hiệu Bởi, một trong những cơ sở để người tiêu dùnglựa chọn chính là những 2 dấu hiệu thể hiện trên bao bì, nhãn mác, giấy tờ giao dịch, quảng cáo của sản phẩm, dịch vụ. Có rất nhiều dấu hiệu để người tiêu dùng có thể nhận biết được hàng hóa sản phẩm như: nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý Và những dấu hiệu này làm phát sinh trách nhiệm của chính doanh nghiệp đối với người tiêu dùng, đối với xã hội, bởi chúng chính là yếu tố quan trọng giúp người tiêu dùng xác định sản phẩm, dịch vụ mà họ mong muốn. Tuy vậy, một mặt các nhà sản xuất, kinh doanh phải lo phục vụ cho người tiêu dùng, đem đến cho người tiêu dùng những sản phẩm, dịch vụ với chất lượng tốt nhất, một mặt khác để tồn tại họ buộc phải đối mặt với nạn hàng nhái, hàng giả đang tràn ngập trên thị trường với những sự sao chép, mô phỏng, nhái theo ngày càng tinh vi. Tình trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đang ngày càng diễn ra một cách tràn lan và có quy mô, thủ đoạn ngày càng tinh vi và rộng khắp làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường kinh doanh lành mạnh mà pháp luật đang bảo vệ; quyền lợicủa người tiêu dùng cũng vì thế mà không được đảm bảo. Chính vì vậy, vấn đề phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu hàng hóa (NHHH), tên thương mại, chỉ dẫn địa lý đang ngày càng trở nên bức xúc đối với những người kinh doanh chân chính, đây cũng là đòi hỏi làm trong sạch thị trường nhằm bảo vệ cho quyền lợi của người tiêu dùng. Khi thực hiện được các bảo hộ này là đương nhiên chúng ta đã thực hiện được đòi hỏi trong sạch và lành mạnh hóa thị trường. Trong bối cảnh hiện nay, khi nhu cầu hội nhập là vấn đề mang tính tất yếu khách quan, kinh tế tri thức chiếm tỷ trọng caotrong nền kinh tế toàn cầu thì vấn đề bảo hộ sở hữu công nghiệp càng được đặt ra là vấn đề bức thiết của bất cứ quốc gia nào, đặc biệt là Việt Nam. Chiến lược phát triển kinh tế ư xã hội của Việt Nam từ 2001 đến 2010 đã chỉ rõ một trong những mục tiêu cơ bản trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam là “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta nhằm 3 đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định Thương mại Việt Mỹ, tiến tới gia nhập WTO.”. Chúng ta đã là thành viên của ASEAN, APEC và ngày 14/11/2006 đánh dấu một điểm mốc quan trọng, chúng ta đã chính thức trởthành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Điều này càng đặt vấn đề hoàn thiện pháp luật về sở hữu công nghiệp trước những thách thức mới bởi chúng ta phải thực hiện những quy định đã cam kết đặc biệt là Hiệp định TRIPS. Trước những yêu cầu khách quan đó, ngày 19/11/2005 Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) được Quốc hội khóa IX nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2006. Đây là lần đầu tiên những quy định về SHTT được thống nhất và quy định chặt chẽ trong một bộ luật. Đó cũng chính là lý do để chúng tôi lựa chọn đề tài “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ theo quy định của pháp luật Việt Nam” để làm Luận văn Thạc sĩ Luật học.