Đề tài Công ty con trong pháp luật Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 16 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công ty con trong pháp luật Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Trên thế giới, mô hình tập đoàn kinh doanh đã ra đời, tồn tại và phát triển từ lâu trong lịch sử của nền kinh tế thế giới. Vào cuối thế kỷ XIX, sự tập trung liên kết giữa các doanh nghiệp diễn ra mạnh mẽ và kết quả đã tạo ra những tổ chức kinh tế có quy mô lớn, có năng lực cạnh tranh. Tập đoàn kinh doanh là hình thức tổ chức tiên tiến, hiện đại cho trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất và nền kinh tế – xã hội, tập đoàn kinh doanh trở thành một hình thức phổ biến, đóng vai trò chi phối và tác động mạnh mẽ tới toàn bộ nền kinh tế ở nhiều nước trong giai đoạn hiện nay. Từ cuối thập niên 70, ở Việt Nam cũng có một hình thức ít nhiều mang giáng giấp của các tập đoàn kinh tế, đó là mô hình tổng công ty nhà nước được điều chỉnh trong luật doanh nghiệp nhà nước. Tổng công ty nhà nước đầu tiên đã ra đời có tên gọi là liên hiệp các xí nghiệp (theo Nghị định 302/CP của Hội đồng Chính phủ ngày 10/12/1978 về điều lệ xí nghiệp quốc doanh). Trong bối cảnh nhà nước thay đổi cơ chế quản lý từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, Nghị định 27 của Hội đồng bộ trưởng ngày 22/3/1989 về đổi mới và sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp được ban hành đã tạo hướng đi mới cho liên hiệp các xí nghiệp. Nhưng việc quản lý sản xuất kinh doanh có tính chất trung gian đã trở thành lực cản đối với sự tự chủ của các xí nghiệp có xu hướng muốn thoát ly khỏi liên hiệp các xí nghiệp để trở thành các doanh nghiệp độc lập. Trước thực tế đó quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1994 do Thủ tướng Chính phủ ban hành về việc tiếp tục sắp xếp doanh nghiệp nhà nước đã cải thiện phần nào tính chất hành chính trung gian trong quản lý sản xuất kinh doanh.Sau đó, thực hiện chủ trương của Đại hôi đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng về việc thành lập tập đoàn kinh doanh, ngày 7/3/1994 thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 91/TTg về thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh. Từ đây, Việt Nam đã có những công ty lớn mạnh nhưng chưa thực sự là một tập đoàn; tổng công ty nhà nước được chia làm hai loại: tổng công ty 90 là tổng công ty thành lập theo quyết định 90/TTg ngày 7/3/1994 (gọi tắt là tổng công ty 90, có 78 công ty) và tổng công ty 91 là tổng công ty thành lập theo quyết định 91/TTg ngày 7/3/1994 (gọi tắt là tổng công ty 91, có 17 công ty). Các tổng công ty này đều có sự đầu tư vốn của nhà nước rất lớn nhưng vẫn chưa đóng được vai trò là trụ cột của nền kinh tế. Thực trạng hoạt động của các tổng công ty 90 và tổng công ty 91 những năm sau đó đã cho thấy mô hình này chưa thực sự đáp ứng được những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường mặc dù xét ở một số khía cạnh chúng đã mang lại những tác dụng nhất định với nền kinh tế đang thiếu những doanh nghiệp tầm cỡ để thực hiện sự cạnh tranh đối với những công ty đa quốc gia hay chi nhánh của chúng đang tồn tại ở Việt Nam lúc bấy giờ. Các tổng công ty này về cơ bản vẫn là các doanh nghiệp nhà nước thuần túy. Điều này thể hiện ở một số khía cạnh sau: thứ nhất, sở hữu trong các công ty vẫn là sở hữu nhà nước; thứ hai, mối liên hệ chủ yếu giữa tổng công ty với cơ quan chủ quản và giữa chúng với các đơn vị thành viên vẫn là các mối quan hệ thiên về quản lý hành chính – kinh tế. Sự chỉ đạo tập trung của bộ máy lãnh đạo tổng công ty đối với các đơn vị thành viên mang tính quản lý hành chính kinh tế; thứ ba, các đơn vị thành viên dù có tư cách pháp nhân hay không có tư cách pháp nhân đều chưa thể là chủ thể đầy đủ của thị trường ; thứ tư, sự kiểm soát của bộ máy lãnh đạo tổng công ty chưa dựa trên sự vận động của vốn.Chính vì vậy, các tổng công ty vẫn tiếp tục ẩn chứa trong mình những căn bệnh cố hữu của doanh nghiệp nhà nước, đó là hiệu quả thấp, thiếu năng động và thiếu tính cạnh tranh. Những căn bệnh (hay những hạn chế) này ngày càng càng lộ rõ khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Do đó, đổi mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước một cách cơ bản theo hướng phát triển thành những tập đoàn kinh tế mạnh là rất cần thiết. Cũng chính vì lý do này, việc tiếp tục hoàn thiện mô hình tổng công ty với tư cách là các liên kết kinh tế của doanh nghiệp nhà nước đã trở thành một đòi hỏi lớn của Đảng và Nhà nước ta. Nghi quyết Hội nghị trung ương lần thứ IX (khóa IX) đã khẳng định lại chủ trương này: “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước. Tổng kết thí điểm việc chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con. Tích cực hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh do tổng công ty nhà nước làm nòng cốt” (nghị quyết HNTW lần thứ IX – khóa IX, báo nhân dân ngày 5/2/2004). Thực hiện chủ trương này, Chính phủ đã chọn 34 tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn để xây dựng đề án thí điểm chuyển sang mô hình công ty mẹ – công ty con. Sau đó đã có những tổng công ty nhà nước chuyển sang hoạt động theo mô hình này, đó là công ty xây lắp điện III, công ty đầu tư phát triển và xây dựng, công ty đầu tư xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam Các công ty này bước đầu đã có những kết quả khả quan sau khi chuyển sang mô hình công ty mẹ – công ty con.