Đề tài Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 14 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Theo quan điểm chung, nuôi con nuôi được hiểu là việc trẻ em đi làm con nuôi ở gia đình khác trong cùng một nước hay ở ngoài nước, nhằm mục đích xác lập mối quan hệ cha mẹ và con, giữa người nuôi và con nuôi với mục đích đảm bảo cho người được nhận nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Nôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một loại hình nuôi con nuôi mà trẻ em không còn ở nước gốc mà ra nước ngoài làm con nuôi với cha mẹ nuôi cùng hoặc khác quốc tịch. Trẻ em Việt Nam được công dân nước ngoài nhận làm con nuôi thì được coi là con nuôi quốc tế hoặc con nuôi nước ngoài. Nuôi con nuôi là hiện tượng đã xuất hiện từ rất lâu đời trên thế giới. Trong Bộ luật Hammurabi, một trong những bộ luật thành văn cổ xưa nhất đã chứa đựng những quy định về nuôi con nuôi, đặc biệt với đối tượng trẻ em bị bỏ rơi. Mục 106 của Bộ luật này đã quy định: Trước khi đàn ông có thể nuôi một đứa trẻ bị bỏ rơi, ông ta phải tìm cha mẹ đẻ của nó, nếu tìm thấy thì phải trả đứa trẻ cho họ. Như vậy, có thể thấy giải pháp tốt nhất mà xã hội giành cho trẻ em ( Từ cổ xưa đến hiện đại) vẫn là “ưu tiên trước hết đối với trẻ là được chăm sóc bởi chính cha mẹ đẻ , được sống trong môi trường gia đình ruột thịt của mình” (Điều 3 Tuyên ngôn Liên Hiệp Quốc). Trong hệ thống pháp luật La Mã cổ đại thì vì mục đích của nhận con nuôi con nuôi chủ yếu để duy trì dòng họ, thờ cúng tổ tiên và thừa kế tài sản. Thời kỳ cách mạng tư sản việc nuôi con nuôi đã có ý nghĩa về mặt xã hội. Gia đình nào càng đông con thì càng hạnh phúc. Vấn đề con nuôi cũng được đề cập đến trong Bộ luật dân sự Napoleon 1804 – Bộ luật ra đời đánh dấu nền lập pháp hiện đại. Theo quan điểm của bộ luật này – điều trái ngược với mong muốn của Napoleon – thì việc nuôi con nuôi bị hạn chế. Nó đã xóa bỏ đối tượng con nuôi là trẻ vị thành niên, chỉ cho phép con nuôi là người đã trưởng thành và đã được chăm sóc trong gia đình cha mẹ nuôi 6 năm. Người nuôi phải từ 50 tuổi trở lên và không có con nối dõi. Như vậy, giải pháp nuôi con nuôi chỉ được thực hiện trong trường hợp cha mẹ nuôi không có người thừa kế. Con nuôi được giữ nguyên tất cả các quyền của chúng trong gia đình gốc, chỉ được quyền thừa kế tài sản và mang tên của người nuôi. Có thể nói vấn đề nuôi con nuôi đã xuất hiện từ rất lâu đời trên thế giới, nhưng vấn đề này chỉ thực sự trở thành mối quan tâm của công đồng thế giới trong vòng hơn nửa thế kỷ qua, kể từ chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Giữa người nhận nuôi conn nuôi và người được nhận làm con nuôi có các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định của Luật Hôn Nhân và Gia đình (HNGĐ) năm 2000 (Điều 67, Luật HNĐ). Nuôi con nuôi có thể được hiểu theo hai góc độ: Là sự kiện pháp lí hoặc là quan hệ pháp luật