Đề tài Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hiện hành – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 22 trang
- Lượt xem : 11
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hiện hành – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ) quy định về tài sản chung của vợ, chồng. Theo đó, Việc xác định tài sản chung của vợ, chồng phải dựa vào nguồn gốc phát sinh tài sản. Cụ thể tài sản chung của vợ, chồng bao gồm những tài sản sau: Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ, chồng được tặng cho chung hoặc thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản chung. Các tài sản mà vợ, chồng mua sắm được bằng thu nhập nói trên; tài sản mà vợ, chồng có trước khi kết hôn hoặc những tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng hay được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân nhưng vợ, chồng đã thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung hoặc theo pháp luật quy định là tài sản chung. Luật HN&GĐ năm 2000 khẳng định quyền sử dụng đất mà vợ, chồng “có được” sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ, chồng; quyền sử dụng đất mà vợ, chồng “có được” trước khi kết hôn hoặc được thừa kế riêng đương nhiên là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ khi vợ, chồng có thỏa thuận là tài sản chung. Đối với những tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ, chồng. Tài sản chung của vợ, chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
Pháp luật quy định các quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với khối tài sản chung và mục đích của việc sử dụng tài sản chung là nhằm đáp ứng nhu cầu gia đình, đảm bảo cho vợ, chồng cùng nhau xây dựng gia đình và lao động tạo ra tài sản vì lợi ích chung của gia đình; những lợi ích đó còn là cơ sở trong việc chia tài sản chung của vợ, chồng.
Xuất phát từ tình hình thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình, đồng thời nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của vợ, chồng về vấn đề tài sản, Luật HN&GĐ quuy định các trường hợp chia tài sản chung của vợ, chồng, đó là chia tài sản chung của trong thời kỳ hôn nhân, chia tài sản chung vủa vợ, chồng khi vợ, chồng chết và chia tài sản chung của vợ, chồng khi vợ, chồng ly hôn. Chia tài sản chung của vợ, chồng khi hôn nhân còn tồn tại là quy định mới của Luật HN&GĐ năm 1986 và năm 2000 so với Luật HN&GĐ năm 1959. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là trường hợp chia tài sản đặc biệt và pháp luật chỉ cho phép chia tài sản chung của vợ, chồng khi hôn nhân tồn tại trong trường hợp thật sự cần thiết vì lợi ích của gia đình, của các đương sự hoặc của người thứ ba. Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định phương thức chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân mà chỉ quy định “vợ, chồng có thể tự thỏa thuận chia tài sản chung”. Trong trường hợp “không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết”
