Đề tài Xây dựng hệ thống bài tập mở rộng vốn từ cho học sinh lớp 1 mắc chứng khó đọc

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 114 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng hệ thống bài tập mở rộng vốn từ cho học sinh lớp 1 mắc chứng khó đọc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Hoạt động đọc sử dụng một bộ mã gồm hai phương diện. Phương diện thứ nhất là
bộ mã ý/chữ, tức là mối liên hệ giữa các con chữ và các ý tưởng, các khái niệm chứa
đựng bên trong. Đối với cách giải mã theo phương diện thứ nhất này, những cái mang
nghĩa là các từ và các câu trọn vẹn, còn những cái có ý nghĩa là các ý tưởng. Về phương
diện thứ hai đó là bộ mã chữ/âm, tức là mối liên hệ giữa các yếu tố của một ngôn ngữ
viết (các chữ và vần) với những yếu tố của một ngôn ngữ nói (các âm vị) [30]. Cách định
nghĩa trên cũng gần tương tự với quan niệm của Viện sĩ M.R Lơvô: “Đọc là một hoạt
động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông
hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức
chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm)” (dẫn theo Lê
Phương Nga 2001, tr.8). Từ các định nghĩa nêu trong từ điển cũng như định nghĩa của
các học giả nghiên cứu về đọc đã nêu, có thể hiểu khái niệm đọc như một quá trình giải
mã hai bậc:1) giải mã chữ thành âm và 2) giải mã chữ thành nghĩa (tức thông hiểu những
gì được đọc). Đối với người mắc chứng khó đọc, họ gặp khó khăn trong việc giải mã
từng chữ, phản ánh sự thiếu khả năng xử lí âm vị. Những khó khăn trong việc giải mã các
từ rời như vậy thường không liên quan đến độ tuổi hay các khả năng về nhận thức; không
phải hệ quả của khuyết tật trí tuệ hay giác quan [42].