Khóa luận Khảo sát đặc điểm nông học và năng suất của 7 giống lúa thuần trong vụ đông xuân 2008 – 2009 tại xã đại hải, huyện kếsách tỉnh Sóc Trăng
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 62 trang
- Lượt xem : 6
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Khảo sát đặc điểm nông học và năng suất của 7 giống lúa thuần trong vụ đông xuân 2008 – 2009 tại xã đại hải, huyện kếsách tỉnh Sóc Trăng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Đềtài nghiên cứu “Khảo sát đặc điểm nông học và năng suất của 7 giống lúa thuần
trong vụ Đông Xuân 2008 – 2009 tại xã Đại Hải, huyện KếSách, tỉnh Sóc Trăng”, thời gian
thực hiện từtháng 1 đến tháng 4/2009, Thí nghiệm bốtrí theo kiểu khối đầy đủngẫu
nhiên một yếu tốvới ba lần lặp lại và 7 nghiệm thức là 7 giống lúa.
Kết quảthu được: Qua quá trình thí nghiệm chúng tôi được kết luận nhưsau: Các
giống có chiều cao trung bình từ103 đến 117, có bộlá thẳng đứng, dạng hình đẹp, OM 5629,
OM 4944, OM 2717, OM 5976 cứng cây, ít đổngã, trong khi 3 giống MTL 588, MTL 575,
OM 5976 có tính đổngã ởcấp 3. Độhởcổbông tốt không bịnghẹn đòng, chiều dài bông khá
và có độ đóng hạt tốt, tất cảcác giống có khảnăng đẻnhánh khá.
Thời gian sinh trưởng các giống trung bình, thích hợp cho sản xuất thâm canh.
Riêng các giống có thời gian sinh trưởng ngắn ngày (95 ngày) là giống MTL 588, MTL
575, OM 5976, thích hợp trong việc tăng vụ. Các giống còn lại có thời gian sinh trưởng
100 đến 103 ngày.
Hầu hết các giống kháng bệnh đạo ôn, nhưng lại nhiễm bệnh đốm nâu từcấp 3 đến
cấp 5, trong đó có 2 giống nhiễm đốm nâu cấp 5 là MTL 588, MTL 575. Đối với rầy nâu các
giống đều có tính chống chịu khá nên đều kháng với rầy nâu cấp 1. Còn đối với dòi đục ngọn
các giống có tính chống chịu ởcấp 3 nên hơi kháng, riêng giống OM 5629 bịnhiễm ởcấp 5.
Các giống thí nghiệm có hạt dài, màu hạt trong suốt, không bạc bụng đáp ứng yêu
cầu xuất khẩu.
Ba giống có năng suất cao và có triển vọng gồm OM 4944 (6,97 tấn/ha), OM 5976
(6,45 tấn/ha), OM 5629 (6,20 tấn/ha) có thể đưa vào sản xuất đại trà tại địa phương.
