Luận án Tri thức bản địa của người Mnông ở huyện Lắk trong việc quản lý và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 217 trang
- Lượt xem : 8
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tri thức bản địa của người Mnông ở huyện Lắk trong việc quản lý và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Huyện Lắk tọa lạc phía Đông Nam của tỉnh Đắk Lắk, vốn là vùng đất được
thiên nhiên ưu đãi khi ban tặng dãy núi Chư Yang Sin, rừng Nam Ka hùng vĩ, hồ
Lắk thơ mộng như tấm gương lớn cho những ngọn núi duyên dáng nghiêng mình
soi bóng. Từ chính không gian hiền hòa và thơ mộng ấy, người Mnông đã tích lũy
cho mình tri thức về môi trường sinh thái mang đặc trưng văn hóa tộc người. Chính
nhờ tri thức ấy mà rừng đầu nguồn được bảo vệ, quan hệ cộng đồng được cố kết,
các thực hành văn hóa luôn hướng đến việc đảm bảo cho sự phát triển bền vững của
cộng đồng “chỉ lấy từ rừng đủ dùng, không hề lãng phí” [45].
Người Mnông là một trong những dân tộc sinh sống lâu đời trên Cao nguyên
Đắk Lắk. “Chúng tôi ăn rừng” là cách mà người Mnông nói về hoạt động canh tác
lúa rẫy của mình. Không phải ngẫu nhiên mà người Mnông chọn động từ “ăn” để
nói về cách mà họ canh tác trên các khoảnh rừng, cách mà họ lấy các sản vật từ
rừng để duy trì sự sống. Vì rừng chính là nơi họ sinh ra, là nơi họ kiếm sống, rừng
cũng là nơi chở che mọi tai họa và đưa họ về với tổ tiên. Đất và làng cũng được cắt
ra từ rừng. Sự linh thiêng, huyền bí, dồi dào về nguồn sống của rừng đã tạo nên
“văn hóa rừng”. Hay nói đúng hơn, rừng chính là môi trường góp phần tạo nên tri
thức bản địa và văn hóa của người Mnông.
Tuy nhiên, hiện nay, trong bối cảnh xã hội chuyển đổi, đời sống của người
Mnông đang hàng ngày, hàng giờ đối diện với rất nhiều thách thức như: sự tác động
của nền kinh tế thị trường; ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; suy giảm nguồn tài
nguyên rừng và sự thay đổi quyền quản lý, sử dụng các nguồn tài nguyên; áp lực
về tăng dân số cơ học dẫn đến nhu cầu đất ở, đất sản xuất trở thành vấn đề cấp
thiết đối chính quyền địa phương và người dân địa phương; sự giao lưu, tiếp biến
về văn hóa, sự thâm nhập của tôn giáo mới đã làm cho kho tàng tri thức bản
địa và văn hóa tộc người dần mai một và nhiều tri thức đã ra đi mãi mãi; điều
này đã tác động sâu sắc đến mối quan hệ sinh thái hài hòa giữa con người và tự
nhiên, tổn hại đến môi trường.
