Đề tài Hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 9 trang
- Lượt xem : 9
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Có thể nói, một trong các nguyên tắc được thừa nhận sớm nhất khi thực hiện chức năng xét xử của Toà án đó là nguyên tắc “chế độ hai cấp xét xử”. Nguyên tắc này đều được thừa nhận trong từng giai đoạn khác nhau của lịch sử lập pháp nước nhà.
Giai đoạn 1945 – 1960 : Ngay từ khi đất nước ta vừa giành được độc lập, ngày 24/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán, trong đó đã ghi nhận nguyên tắc “Tòa án thực hiện hai cấp xét xử”. Về mặt cơ cấu tổ chức của Toà án lúc bấy giờ, tại Điều 63 Hiến pháp năm 1946 quy định cơ quan Toà án gồm có Toà án nhân dân tối cao, các Toà án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp. Theo Sắc lệnh số 85/SL ngày 22-5-1950 thì các Toà án ở nước ta gồm có Toà án nhân dân huyện, Toà án nhân dân tỉnh, Toà án nhân dân phúc thẩm khu hoặc thành phố và Toà án nhân dân tối cao. Các Toà án nhân dân phúc thẩm là một cấp Toà án ở giữa Toà án nhân dân tỉnh, thành phố và Toà án nhân dân tối cao (Thông tư số 92-Tc ngày 11-11-1959 của Liên bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao).
Đến năm 1952, Nghị định số 32-NĐ ngày 6-4-1952 quy định thẩm quyền các các Toà án nhân dân, trong đó Toà án nhân dân huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hoặc xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm một số loại vụ án; Toà án nhân dân tỉnh xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm (chung thẩm) đối với các vụ án mà Toà án nhân dân huyện đã xét xử sơ thẩm.
Giai đoạn 1960 – 1988 : Lần đầu tiên nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử” được thừa nhận trong luật. Điều 9 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 quy định : toà án nhân dân thực hành chế độ hai cấp xét xử. Đương sự có quyền chống bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân xử sơ thẩm lên Toà án nhân dân trên một cấp. Viện kiểm sát nhân dân cũng cấp và trên một cấp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân.
Giai đoạn 1989 đến nay : Nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử” không còn được quy định trong Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1980 và Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988, tuy nhiên nội dung của nguyên tắc này về cơ bản vẫn được giữ nguyên, có thêm một vài điểm tiến bộ, chẳng hạn về quyền hạn, Toà án cấp phúc thẩm không có quyền làm xấu đi tình trạng của bị cáo hoặc huỷ bản án, quyết định sơ thẩm để xét xử lại vụ án theo hướng làm nặng thêm tình trạng của đương sự nếu không có kháng cáo, kháng nghị về vấn đề đó. Tuy nhiên cũng còn một vài điểm hạn chế, ví dụ như ,vẫn quy định cho phép Toà án nhân dân tối cao xét xử theo trình tự sơ thẩm đồng thời chung thẩm,.
Những hạn chế trong giai đoạn này về cơ bản lai được khắc phục. Nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử ” được quy định tại Điều 20 của BLTTHS năm 2003, và Điều 11 của Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002. Bên cạnh việc được quy định trong luật, nguyên tắc này còn được Đảng ta quán triệt thành Nghị quyết, tại Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động xét xử của Tòa án: “Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, đổi mới thủ tục giám đốc thẩm để đảm bảo việc xét xử vừa đúng đắn, vừa nhanh chóng”.
Tóm lại, nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử” đã được thừa nhận trong pháp luật nước ta ngay từ ngày đầu. Việc thừa nhận nguyên tắc là nhằm góp phần đảm bảo thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền công dân, hạn chế tối đa việc Toà án xét xử oan sai người vô tội.