Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về các chủ thể kinh doanh chứng khoán
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 10 trang
- Lượt xem : 9
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về các chủ thể kinh doanh chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã qua 3 năm chính thức vận hành. Yếu tố có ảnh hưởng rất quan trọng tới thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam là hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh toàn bộ thị trường. Bài viết này xin được trao đổi về một số nội dung pháp lý cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các chủ thể kinh doanh chứng khoán. “Chủ thể kinh doanh chứng khoán được hiểu là những đối tượng được pháp luật cho phép tiến hành các hoạt động kinh doanh chứng khoán. Chủ thể kinh doanh chứng khoán bao gồm: công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty tư vấn đầu tư”1. Với quan điểm như vậy, chúng tôi cho rằng, những quy định về các vấn đề sau cần sớm được giải quyết.
Thứ nhất, xác định rõ nội hàm của khái niệm kinh doanh chứng khoán.
Kinh doanh chứng khoán là một hoạt động cụ thể của kinh doanh, mặc dù nó có những nét đặc thù riêng. Nếu một hoạt động chứng khoán hàm chứa đầy đủ đặc tính của kinh doanh thì cũng phải được coi là hoạt động kinh doanh chứng khoán. Nếu lập luận này được chấp nhận, thì ngoài 5 hình thức kinh doanh chứng khoán mà pháp luật quy định, chúng tôi cho rằng còn có những hoạt động khác cũng là kinh doanh chứng khoán. Việc chưa xác định đầy đủ nội hàm kinh doanh chứng khoán sẽ tạo ra những đối xử khác nhau cho cùng một loại hành vi như nhau, có nghĩa là không công bằng. Cần phải xác định rõ về tiêu chí để nhận diện hoạt động kinh doanh chứng khoán. Chúng tôi cho rằng những hoạt động liên quan đến chứng khoán do các chủ thể đủ điều kiện thực hiện, tiến hành nhằm mục đích kiếm lời là các hoạt động kinh doanh chứng khoán mà không nhất thiết chỉ là bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn đầu tư.
Những hoạt động có liên quan đến chứng khoán có đủ các yếu tố nêu trên trong hiện tại là hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, hoạt động lưu ký chứng khoán. Trong tương lai, có thể sẽ xuất hiện thêm những loại hành vi mới như định mức tín nhiệm. Thực tế, khái niệm kinh doanh chứng khoán được các quốc gia có thị trường định nghĩa theo những cách khác nhau, nhưng thường lựa chọn phương án đưa dấu hiệu nhận diện hoặc phương án liệt kê. Mỗi phương án đều có những ưu nhược điểm riêng nên hiện nay có xu hướng xích lại gần cách định nghĩa về kinh doanh chứng khoán. Các nước có thị trường chứng khoán mới nổi thường xác định theo phương pháp liệt kê nhưng họ cũng tạo ra những cửa mở cho những hoạt động có thể sẽ hình thành. Cũng có ý kiến cho rằng vì kinh doanh chứng khoán là một ngành nghề đặc biệt nên phải xác định rõ nội dung kinh doanh trong ngành nghề này, tuy nhiên theo quan điểm của chúng tôi, cho đến thời điểm hiện tại, các chủ thể thực hiện các hoạt động chứng khoán nêu trên đều đã tuân thủ điều kiện luật định. Pháp luật hiện hành quy định các tổ chức muốn hoạt động lưu ký chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán phải được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hoạt động lưu ký, hoạt động quản lý quỹ. Nhân viên hành nghề lưu ký, quản lý quỹ đầu tư là người đã được Ủy ban chứng khoán cấp giấy phép hành nghề lưu ký, kinh doanh chứng khoán2. Nếu so sánh với những tiêu chuẩn của hoạt động kinh doanh chứng khoán ghi nhận tại Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 thì không có điểm gì khác biệt.
Việc xác định đúng nội hàm của hoạt động kinh doanh chứng khoán theo chúng tôi có ý nghĩa quan trọng. Để đảm bảo tính tôn nghiêm của pháp luật, các chủ thể có cùng điều kiện, môi trường kinh doanh, đối tượng kinh doanh và mục đích kinh doanh, phải có cùng những quy định pháp luật điều chỉnh. Nói cách khác, các chủ thể cùng tiến hành kinh doanh chứng khoán phải được đối xử như nhau về quyền và nghĩa vụ, cơ quan quản lý, thực hiện chế độ tài chính kế toán và báo cáo tài chính kế toán. Chẳng hạn những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, các quỹ phòng ngừa rủi ro, dự trữ bắt buộc cần phải được áp dụng thống nhất mà trong thực tế những vấn đề này chưa thực hiện được.