Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 121 trang
  • Lượt xem : 19
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Thực hiện đường lối của Đảng, trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp nước ta liên tiếp thu được những thành tựu to lớn. Thành tựu lớn nhất là trong một thời gian không dài, từ một nền nông nghiệp tự cấp tự túc, lạc hậu vươn lên trở thành một nền nông nghiệp hàng hóa, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia và có tỉ suất hàng hóa ngày càng lớn, có vị thế đáng kể trong khu vực và thế giới. Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp lớn trên thế giới.
Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hiện nay, gạo là một trong những mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam. Gạo trở thành một trong 5 mặt hàng nông sản xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Đây là thành tựu đáng kể của hoạt động sản xuất và kinh doanh gạo và lại càng đáng kể hơn khi cách đây 20 năm nước ta vẫn còn phải nhập khẩu lương thực.
Tuy nhiên, sản xuất để đáp ứng “cái ăn” của hơn 80 triệu dân Việt Nam, khác với sản xuất lúa hàng hóa tham gia thị trường thế giới với tư cách là nước xuất khẩu. Nhiều vấn đề khúc mắc cần phải giải quyết đối với sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Theo số liệu mới công bố vào tháng 12/2008 của Bộ Thương Mại, mặc dù số lượng gạo xuất khẩu của ta nhiều, đứng thứ hai trên thế giới về mặt khối lượng nhưng lại chỉ xếp thứ tư thế giới xét về mặt giá trị xuất khẩu. Điều này là do chất lượng gạo không đảm bảo, từ khâu chọn giống lúa, bảo quản, vận chuyển và chế biến đều thiếu và yếu. Hơn nữa, cơ chế quản lý điều hành xuất khẩu gạo không hợp lý cùng với công tác dự báo thị trường kém nên thường để lỡ cơ hội xuất khẩu khi giá gạo lên cao và lại bán ra ồ ạt khi giá gạo xuống thấp. Đối với các loại gạo đã có thương hiệu, có chỉ dẫn địa lý thì giá cả ổn định, có thể định giá cao mà người tiêu dùng vẫn chấp nhận mua, trong khi đó gạo xuất khẩu của Việt Nam mặc dù đã có mặt trên thị trường từ rất lâu xong hoàn toàn chưa có thương hiệu nên giá gạo thường xuyên biến động, khó dự đoán, khó có thể định một mức giá quá cao để bán. Vì thế giá gạo Việt Nam thường thấp, chỉ gần bằng 85% giá gạo xuất khẩu thế giới, thấp nhất trong 4 cường quốc xuất khẩu gạo còn lại (Thái Lan, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Pakistan). Hạn chế về tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm nên Việt Nam cũng chưa thể thâm nhập vào các thị trường tiêu thụ gạo cao cấp, đem lại giá trị xuất khẩu cao. Với những lợi thế của mình Việt Nam hoàn toàn có thể cải thiện được chất lượng gạo để bán với giá cao hơn.
Để có thể phát huy hết tiềm năng của một nền nông nghiệp lúa nước, cần phải nhìn nhận lại thực trạng sản xuất lúa hàng hóa và việc xuất khẩu gạo những năm vừa qua. Việc xem xét đánh giá đó được đặt trong bối cảnh chung của thế giới nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO), có nghiên cứu, xem xét và so sánh với những quốc gia có đặc điểm tương đồng với Việt Nam, từ đó tìm đến những giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam
Đây cũng chính là mục đích nghiên cứu của em khi chọn đề tài “Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.