Luận án Nghiên cứu, sử dụng một số phế phụ phẩm nông nghiệp kết hợp bãi lọc trồng cay để xử lý kim loại nặng Fe, Mn trong nước thải mỏ than

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 169 trang
  • Lượt xem : 16
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_nghien_cuu_su_dung_mot_so_phe_phu_pham_nong_nghiep_k.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu, sử dụng một số phế phụ phẩm nông nghiệp kết hợp bãi lọc trồng cay để xử lý kim loại nặng Fe, Mn trong nước thải mỏ than, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Khai thác than vẫn đóng một vai trò khá quan trọng ở nhiều quốc gia trên thế
giới và Việt Nam, cung cấp nhiên liệu hóa thạch cho các nhà máy luyện kim, nhiệt
điện và công nghiệp hoá chất. Đồng thời cũng đem lại những lợi nhuận kinh tế
không nhỏ từ việc xuất khẩu, tạo nguồn thu nhập và việc làm cho người dân vùng
khai thác mỏ, Tuy nhiên, hoạt động khai thác than đã và đang gây ra các tác động
xấu đến môi trường (đất, nước, không khí) và đời sống của người dân khu vực xung
quanh. Mức độ tác động này gần như tỷ lệ thuận với lợi nhuận từ hoạt động khai
thác, đặc biệt là ô nhiễm môi trường do nước thải mỏ than gây ra. Do đó, việc đưa
ra những giải pháp hữu ích trong việc phòng ngừa, xử lý và giảm thiểu những tác
động của nước thải do hoạt động khai thác than gây ra là rất cần thiết.
Nước thải từ hoạt động khai thác than thường có hàm lượng KLN (Fe, Mn)
và TSS cao, trong khi đó lại có pH rất thấp (1÷3). Ngoài ra, còn chứa một số hợp
chất hữu cơ, ion sulfat, nitrate, amoni, mà các phương pháp hóa lý khó loại bỏ
được. Đây là những yếu tố gây tác động xấu tới chất lượng nước nguồn tiếp nhận và
đời sống sinh hoạt của con người khi nước thải không được xử lý triệt để trước khi
xả ra môi trường
Theo Quy hoạch phát triển của ngành than ở Việt Nam đến năm 2020, trong
đó có xét đến triển vọng năm 2030 thì việc phát triển của ngành than cần gắn liền
với việc cải thiện và bảo vệ môi trường khu vực khai thác than [4]. Việc đầu tư hợp
lý cho công tác bảo vệ môi trường và XLNT mỏ đạt quy chuẩn NT công nghiệp
được thực hiện từ năm 2005, đến năm 2015 là yêu cầu bắt buộc áp dụng cho tất cả
các công ty khai thác than của Tập đoàn CN Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV)
[5]. Tuy nhiên, đối với những nước đang trong sự phát triển như ở Việt Nam, thì
ngành CN khai thác than chủ yếu ở quy mô nhỏ và vừa, nhưng lượng NT mỏ phát
sinh lại rất lớn, gây khó khăn trong công tác xử lý, chi phí XLNT cao dẫn đến khả
năng đầu tư thấp. Hầu hết các phương pháp xử lý đang được áp dụng để xử lý ô
nhiễm Fe, Mn trong NT mỏ than là phương pháp hóa – lý (trao đổi ion, kết tủa hóa
học, oxy hóa – khử, keo tụ tạo bông cặn, hấp phụ, xử lý điện hóa, sử dụng màng, )
đều ứng dụng các công nghệ phức tạp. Các công nghệ này xử lý các chất ô nhiễm
nhanh nhưng chi phí xử lý khá tốn kém do phải sử dụng nhiều hóa chất, điện năng,
vật liệu đắt tiền và cũng tạo ra lượng cặn lớn từ quá trình kết tủa kim loại, các hóa
chất tồn dư có thể gây ô nhiễm môi trường thứ cấp.