Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng của loài cây mẹ và biến dị, di truyền về sinh trưởng và tính chất gỗ trong chọn giống keo lai tự nhiên
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 186 trang
- Lượt xem : 5
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng của loài cây mẹ và biến dị, di truyền về sinh trưởng và tính chất gỗ trong chọn giống keo lai tự nhiên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Các loài keo thuộc chi Acacia có vai trò hết sức quan trọng trong cơ cấu cây
trồng rừng ở Việt Nam cũng như nhiều nước Đông Nam Á để cung cấp nguyên liệu
cho sản xuất giấy, MDF (ván ép cường độ trung bình), gỗ xẻ và đồ mộc gia dụng
(Clark và cộng sự, 2001) [38]. Ở Việt Nam cũng như các nước trong khu vực, ba
loài keo là Keo tai tượng, Keo lá tràm, Keo lá liềm và giống lai giữa Keo tai tượng
và Keo lá tràm (Keo lai tự nhiên) được trồng rừng chủ yếu. Đến năm 2012, ở Việt
Nam có khoảng 1,2 triệu ha rừng trồng các loài keo, trong đó Keo tai tượng có
600.000 ha, Keo lai tự nhiên có hơn 400.000 ha, Keo lá tràm có 95.000 ha và Keo lá
liềm có 5.000 ha (Tổng Cục Lâm nghiệp, 2013) [34]. Năm 2013, Việt Nam đã xuất
khẩu 7,45 triệu tấn dăm tương đương 15 triệu m3 gỗ tròn, trong đó các loài keo
chiếm 90%, đạt giá trị xuất khẩu 900 triệu USD và là nước xuất khẩu dăm gỗ lớn
nhất thế giới (Bộ công thương, 2013) [7]. Ngoài ra, gỗ các loài keo còn là nguồn
nguyên liệu hết sức quan trọng cung cấp gỗ xẻ làm đồ mộc xuất khẩu cũng như tiêu
dùng trong nước.
Keo lai là tên gọi tắt của giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng và Keo lá
tràm. Đây là giống cây sinh trưởng nhanh, chất lượng thân cây tốt, có khả năng
thích ứng lớn, khả năng cải tạo đất cao và có tiềm năng bột giấy cao hơn so với cả
Keo tai tượng và Keo lá tràm, khả năng nhân giống vô tính bằng mô – hom đạt tỷ lệ
ra rễ cao, từ 90 – 95% (Lê Đình Khả và cộng sự, 2003) [18]. Hiện nay keo lai đang
là giống cây trồng rừng chính ở nhiều nơi trong nước, đặc biệt là tại các tỉnh thuộc
vùng duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ.
Các nghiên cứu về chọn giống keo lai đã được thực hiện một cách đồng bộ
và toàn diện từ năm 1993 đến nay, hiện có hơn 20 giống keo lai đã được công nhận
là giống quốc gia và giống tiến bộ kỹ thuật cho trồng rừng rộng rãi (Lê Đình Khả và
cộng sự, 1999c, 2003; Nguyễn Hoàng Nghĩa và cộng sự, 2010, 2015; Hà Huy Thịnh
và cộng sự, 2010, 2015) [16] [18] [25] [26] [30] [31]. Các giống keo lai này đã góp
phần nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng ở nước ta.