Luận án Vai trò hệ thống chính trị cấp cơ sở trong thực hiện công tác dân tộc ở các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam hiện nay
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 225 trang
- Lượt xem : 12
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_vai_tro_he_thong_chinh_tri_cap_co_so_trong_thuc_hien.doc
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Vai trò hệ thống chính trị cấp cơ sở trong thực hiện công tác dân tộc ở các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Michael E. Brown (1997), Government Policies and Ethnic Relations in Asia and the Pacific (Chính sách của chính phủ và quan hệ dân tộc ở Châu Á – Thái Bình Dương) [136]. Tiếp cận dưới góc độ chính trị học, trên cơ sở phân tích tình trạng xung đột sắc tộc, một trong những vấn đề nghiêm trọng và phổ biến nhất trên thế giới hiện nay, tác giả đã nhấn mạnh vai trò của chính quyền nhà nước các cấp trong thực thi CSDT, tiến hành CTDT của chính phủ các nước châu Á và Thái Bình Dương. Tác giả cho rằng, tình trạng xung đột sắc tộc có thể làm suy yếu các nỗ lực thúc đẩy phát triển kinh tế và chính trị, cũng như công bằng chính trị, kinh tế và xã hội. Nó cũng có thể dẫn đến bạo lực và chiến tranh. Do đó, các chính phủ cần quan tâm hoạch định và thực thi CSDT một cách đúng đắn, phù hợp. Trọng tâm của cuốn sách là sự phân tích các chính sách khác nhau mà các chính phủ đã theo đuổi trong nỗ lực đối phó với những vấn đề dân tộc nảy sinh ở châu Á và Thái Bình Dương – khu vực đông dân và nền kinh tế sôi động nhất trên thế giới, bao gồm chính sách của chính phủ ở mười sáu quốc gia như: Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, Miến Điện, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippines, Trung Quốc, Úc, New Zealand. Tác giả đã xem xét toàn diện các chính sách chính trị, kinh tế, giáo dục, ngôn ngữ và văn hóa. Sử dụng quan điểm so sánh rộng rãi để đánh giá hiệu quả các phương pháp tiếp cận khác nhau của chính phủ, từ đó đưa ra các khuyến nghị về chính sách áp dụng cho từng quốc gia và khu vực.
N. Ganesan, Kyaw Yin Hlaing (2007), Myanmar: State, Society and Ethnicity (Myanmar: Nhà nước, Xã hội và Dân tộc) [137]. Cuốn sách đề cập mối quan hệ và hệ thống chính sách, cũng như thực tiễn thực thi chính sách của chính phủ quân sự Myanmar với ba nhóm dân tộc lớn của Myanmar là Karen, Kachin và Shan. Myanmar là một quốc gia đa dạng về sắc tộc. Chính phủ Myanmar chính thức công nhận 135 dân tộc riêng biệt. Cuốn sách tập trung mô tả các chính sách chính trị, kinh tế, xã hội của chính phủ quân sự Myanmar thông qua các cuộc đàm phán với đại diện các nhóm dân tộc nổi dậy cũng như các DTTS khác, nhằm duy trì hòa bình, ổn định ở đất nước này. Trên cơ sở đó, cuốn sách gợi mở những vấn đề liên quan đến chính sách đối với các DTTS ở các quốc gia đa dân tộc.
Ramses Amer (2014), Ethnic Minorities, Government Policies, and Foreign Relations (Dân tộc thiểu số, Chính sách của Chính phủ và Quan hệ Đối ngoại) [138]. Cuốn sách đã đề cập khá rõ nét về vai trò của nhà nước, chính quyền các cấp trong giải quyết vấn đề dân tộc, nhất là quan hệ dân tộc xuyên biên giới đặt trong mối quan hệ giữa CSDT với quan hệ đối ngoại. Cuốn sách tập trung phân tích tác động của các chính sách của chính phủ và quan hệ đối ngoại đối với các DTTS thông qua hai trường hợp điển hình: người Hoa ở Việt Nam và quan hệ Trung – Việt; người Việt ở Campuchia và quan hệ Campuchia – Việt Nam. Theo cuốn sách, cả hai trường hợp đều cho thấy các mối quan hệ giữa các quốc gia có thể có tác động đáng kể đến tình hình của các DTTS ở các nước láng giềng, đến các chính sách của chính phủ đối với các DTTS. Cuốn sách cũng phân tích CSDT của Việt Nam đối với người Hoa, CSDT của Campuchia đối với người Việt, qua đó khẳng định, mức độ phát triển, hòa hợp của hai trường hợp này phụ thuộc lớn vào vai trò của HTCT các cấp trong thực hiện CSDT cũng như chính sách đối ngoại.
