Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của gốc ghép đến khả năng chống chịu bệnh héo xanh, sự sinh trưởng, năng suất và chất lượng cây ớt cay
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 213 trang
- Lượt xem : 6
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng của gốc ghép đến khả năng chống chịu bệnh héo xanh, sự sinh trưởng, năng suất và chất lượng cây ớt cay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Bệnh héo xanh đã gây thiệt hại nặng nề ở những vùng thâm canh ớt ở đồng
bằng sông Cửu Long, vi khuẩn Ralstonia solanacearum gây hại có phạm vi ký
chủ rộng trên nhiều loại rau và lưu tồn rất lâu trong đất, bệnh thường phát triển
và gây hại nặng trong điều kiện nhiệt độ cao và ẩm độ cao, đặc biệt trong mùa
mưa. Hiện nay chưa có biện pháp phòng trị hiệu quả bệnh héo xanh, chủ yếu
dựa vào biện pháp hóa học. Sử dụng gốc ghép là một trong những biện pháp
phòng ngừa bệnh héo xanh khả thi nhất, đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới
và Việt Nam đối với cây cà chua, tuy nhiên cho đến nay ở Việt Nam chưa có
công trình nghiên cứu nào được công bố trên cây ớt cay. Chính vì vậy, đề tài
“Nghiên cứu ảnh hưởng của gốc ghép đến khả năng chống chịu bệnh héo xanh,
sự sinh trưởng, năng suất và chất lượng cây ớt cay (Capsicum spp.)” được thực
hiện từ 2013-2017 nhằm xác định: 1/ Khả năng gây hại của các chủng vi khuẩn
Ralstonia solanacearum trên cây ớt cay làm ngọn ghép, 2/ Khả năng chống chịu
bệnh héo xanh trên các giống ớt làm gốc và ngọn ghép, 3/ Khả năng chống chịu
bệnh héo xanh trên cây ớt cay ghép, 4/ Mối tương quan di truyền và đặc điểm
hình thái của các giống ớt và 5/ Gốc ghép có khả năng chống chịu bệnh héo
xanh, sinh trưởng, năng suất và chất lượng ớt cay điều kiện ngoài đồng. Mười
sáu thí nghiệm đã tiến hành tại Đại học Cần Thơ, tỉnh Đồng Tháp, An Giang và
thành phố Cần Thơ. Mười giống ớt làm gốc ghép (địa phương và nhập nội) và 2
giống ớt cay làm ngọn ghép (Hiểm lai 207 và Sừng vàng nhập nội, F1) đang
được trồng phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả cho thấy:
1/ Khả năng gây hại cao nhất là 2 chủng vi khuẩn Rs1 (xã Tân Bình) và
Rs2 (xã Tân Quới) với tỉ lệ bệnh 93,8 và 95,8%, được phân lập ở huyện Thanh
Bình-Đồng Tháp trong số 6 chủng được thu thập và phân lập ở tỉnh Đồng Tháp,
An Giang, Vĩnh Long, Kiên Giang trên cây ớt cay làm ngọn ghép.
2/ Khả năng chống chịu bệnh héo xanh (chủng Rs1 và Rs2) của các giống
ớt làm gốc ghép: Đà Lạt, TN592, TN598, TN607, TN557, Hiểm 27 (tỉ lệ bệnh
5,1-45,8%) đều thấp hơn 2 giống ớt làm ngọn điều kiện nhà lưới, 50 ngày sau
khi lây bệnh.
3/ Khả năng chống chịu bệnh héo xanh của các tổ hợp ớt ghép đều thấp
hơn Đối chứng không ghép điều kiện nhà lưới ở 40 ngày sau khi lây bệnh: (i)
Tổ hợp Hiểm lai 207 trên gốc (Đà Lạt, TN592, TN557, TN607, Hiểm 27) có tỉ
lệ bệnh thấp tương đương 1/3 so với Đối chứng không ghép và (ii) Tổ hợp ớt
Sừng vàng trên 5 giống làm gốc có tỉ lệ bệnh thấp hơn 1/7 so với Đối chứng
không ghép. Tổ hợp ghép của 2 loại ớt làm ngọn trên gốc TN557 kiểm soát
bệnh héo xanh tốt hơn Đối chứng ghép và không ghép.