Luận án Nghiên cứu thực nghiệm khả năng chịu lực nén lệch tâm của cột bê tông cốt thép sử dụng tro bay nhà máy nhiệt điện Hongsa – CHDCND Lào
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 259 trang
- Lượt xem : 9
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_nghien_cuu_thuc_nghiem_kha_nang_chiu_luc_nen_lech_ta.pdf
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu thực nghiệm khả năng chịu lực nén lệch tâm của cột bê tông cốt thép sử dụng tro bay nhà máy nhiệt điện Hongsa – CHDCND Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Xi măng poóc lăng
Xi măng poóc lăng là chất kết dính quan trọng được sử dụng trong công nghiệp
sản xuất bê tông và có một lịch sử phát triển rất lâu đời. Khoảng 3000 năm trước,
người La Mã đã khám phá ra xi măng Puzzolan bằng cách trộn vôi và tro núi lửa.
Năm 1796 Jame Paker là người Anh được cấp bằng sáng chế về xi măng thủy lực
bằng cách nung đá vôi có chứa sét – gọi là xi măng Paker hay xi măng La Mã. Xi
măng La Mã lần đầu tiên được sản xuất bằng cách nung đá vôi có chứa sét đã được
nghiền thành bột [151]. Năm 1824, Joseph Aspdin đã sáng chế ra xi măng poóc lăng.
Từ đó đến nay, công nghệ chất kết dính dùng trong xây dựng đã không ngừng phát
triển và hoàn thiện [24,151].
Theo tiêu chuẩn ASTM C150/150M-18 [72], xi măng được chia thành năm
loại cơ bản như sau:
– Loại I: xi măng poóc lăng thường (ordinary Portland cement, gọi tắt là OPC),
được sử dụng trong xây dựng với các tính năng thông thường mà không yêu cầu các
đặc tính đặc biệt;
– Loại II: xi măng biến tính, có nhiệt lượng sinh ra từ phản ứng thủy hóa thấp
hơn so với xi măng loại I; được sử dụng tại nơi tiếp xúc ở mức độ vừa phải với sự tấn
công của sunfat hoặc nơi cần giảm nhiệt độ từ phản ứng thủy hóa trong bê tông;
– Loại III: xi măng đông kết nhanh, được sử dụng khi mong muốn đạt cường
độ tăng cao sớm, có nhiệt lượng sinh bởi phản ứng thủy hóa cao hơn so với xi măng
loại I;
– Loại IV: xi măng toả nhiệt thấp, được phát triển nhằm sử dụng trong các đập
thủy điện bê tông khối lớn và các cấu trúc khác nơi nhiệt độ thủy hóa giảm chậm.
Trong những năm gần đây, rất ít xi măng loại IV đã được sản xuất do đã được thay
thế bằng sự kết hợp của xi măng loại I và II với tro bay;
– Loại V: xi măng poóc lăng bền sunfat, được sử dụng cho bê tông tiếp xúc
với đất có chứa sunfat tại các kết cấu móng, tường tầng hầm, cống rãnh, v.v.
Một số thành phần hóa học và yêu cầu kỹ thuật của các loại xi măng poóc lăng
theo ASTM C150 được trình bày trong Bảng 1.1 và Bảng 1.2 [151].