Luận án Nghiên cứu kết quả điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm bằng xạ trị lập thể định vị thân

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 157 trang
  • Lượt xem : 10
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_nghien_cuu_ket_qua_dieu_tri_ung_thu_phoi_khong_te_ba.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu kết quả điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm bằng xạ trị lập thể định vị thân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Phẫu thuật
Chỉ định điều trị UTPKTBN phụ thuộc vào giai đoạn bệnh, chức năng
hô hấp, toàn trạng BN, tình trạng đột biến gen và tình trạng biểu lộ PD-1, PD-
L1. Trong đó, phẫu thuật là phương pháp mang lại kết quả tốt nhất cho BN giai
đoạn sớm (T1-2aN0M0) [2]. Đây là biện pháp triệt căn được lựa chọn hàng đầu
và mang lại hiệu quả tốt nhất cho BN giai đoạn này. Chỉ định phẫu thuật không
chỉ dựa trên giai đoạn của khối u mà còn dựa trên một số yếu tố từ phía BN
như: BN phải không có bệnh lý nặng kết hợp, có chức năng hô hấp tốt (FEV1
≥ 1,2 – 2 lít hoặc FEV1 dự tính sau phẫu thuật > 0,8 lít, độ khuếch tán oxit
cacbon trong phổi DLCO > 60%). Các phương pháp phẫu thuật có thể được áp
dụng cho BN giai đoạn I bao gồm: phẫu thuật cắt phổi giới hạn (cắt hình chêm
hoặc cắt phân thùy), phẫu thuật cắt 1 thùy phổi [38]. Trong đó, phẫu thuật cắt
bỏ toàn bộ thùy phổi chứa khối u kết hợp với vét hạch rốn phổi, trung thất cùng
bên là phương pháp phẫu thuật nền tảng trong phẫu thuật ở BN UTP [39], [40].
Trong các nghiên cứu gần đây, Hiệp hội nghiên cứu UTP Quốc tế đã đưa ra kết
quả về tỉ lệ thời gian sống thêm 5 năm của BN UTP giai đoạn I và II, phân tích
từ 46 nguồn khác nhau ở trên 19 quốc gia, giai đoạn bệnh được phân loại TNM
theo phiên bản 7. Với giai đoạn theo lâm sàng, tỉ lệ sống thêm 5 năm lần lượt
là 50% cho giai đoạn Ia, 43% với giai đoạn IB, 36% ở giai đoạn IIA và 25%
đối với giai đoạn IIB. Trong khi đó, tỉ lệ sống thêm 5 năm sau khi đã phân loại
lại giai đoạn sau mổ lần lượt là 73%, 58%, 48% và 36% [7]. Riêng ở Nhật Bản,
số liệu lớn nhất được báo cáo vào năm 2004 với 11.663 BN, trong đó chỉ có
243 BN chiếm 2,1% là UTP tế bào nhỏ, kết quả tỉ lệ sống thêm 5 năm theo
phân loại lâm sàng là 82% với giai đoạn IA, 66,1% với giai đoạn IB, 54,5% ở
giai đoạn IIA và 46,4% với giai đoạn IIB, còn tỉ lệ này theo phân loại sau mổ
lần lượt là 86,8%, 73,9%, 61,6% và 49,8%. Với các BN giai đoạn rất sớm như
ung thư biểu mô tuyến tại chỗ (Adenocarcinoma in situ) hay ung thư biểu mô
tuyến xâm lấn tối thiểu (Minimaly invasive adenocarcinoma), tổn thương dạng
kính mờ (Ground glass opacity) với phần đặc nhỏ hơn 5mm, tỉ lệ sống thêm 5
năm là gần 100% [7].