Luận án Nghiên cứu hiệu quả các mô hình nông nghiệp thông minh với khí hậu ở vùng duyên hải nam Trung Bộ
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 232 trang
- Lượt xem : 10
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_nghien_cuu_hieu_qua_cac_mo_hinh_nong_nghiep_thong_mi.pdf
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu hiệu quả các mô hình nông nghiệp thông minh với khí hậu ở vùng duyên hải nam Trung Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
An ninh lương thực (ANLT) và biến đổi khí hậu (BĐKH) ngày càng có quan hệ
chặt chẽ với nhau. BĐKH đang và sẽ làm trầm trọng thêm các thách thức về mất ANLT
bằng cách hạn chế mức sản xuất nông nghiệp (SXNN) trong tương lai (FAO, 2011a). Ở
chiều ngược lại, nông nghiệp và các hoạt động thay đổi mục đích sử dụng đất có liên quan
đến 24% tổng lượng phát thải khí nhà kính (KNK) toàn cầu (WRI, 2013). Để giải quyết
được các áp lực nêu trên, đòi hỏi SXNN phải có sự chuyển đổi sang các hệ thống sản xuất
có năng suất cao hơn, sử dụng hiệu quả các yếu tố đầu vào, ít biến đổi và ổn định các yếu
tố đầu ra, có khả năng chống chịu với những rủi ro, các cú sốc và BĐKH trong dài hạn.
Đồng thời, giảm phát thải KNK trên một đơn vị diện tích đất hay sản phẩm nông nghiệp,
tạo nên các bể chứa các-bon, góp phần vào giảm thiểu tác động của BĐKH (FAO, 2013).
Nông nghiệp thông minh với khí hậu (Climate-Smart Agriculture, viết tắt là CSA) là một
cách tiếp cận mới để chuyển đổi, định hướng lại và hướng dẫn quản lý sự phát triển nông
nghiệp theo thực tế mới của BĐKH (Lipper & cộng sự, 2014). Cách tiếp cận này liên quan
đến nhiều yếu tố khác nhau như tăng cường các điều kiện kỹ thuật, chính sách và thúc đẩy
đầu tư nhằm đạt được sự phát triển nông nghiệp bền vững trong từng ngữ cảnh, địa phương
cụ thể. Khác với chiến lược và quản lý nông nghiệp truyền thống, CSA nỗ lực lồng ghép
các biện pháp ứng phó với BĐKH vào các kế hoạch, chiến lược phát triển nông nghiệp,
đặc biệt là tìm kiếm các cơ hội để thích ứng trong ngắn hạn và giảm nhẹ tác động trong
dài hạn (Lipper & cộng sự, 2014).
Ở Việt Nam, định hướng phát triển một nền nông nghiệp phát thải thấp, thích ứng
với BĐKH và tăng trưởng bền vững đã được thể hiện trong nhiều Chiến lược, Kế hoạch,
Quy hoạch của ngành. Cụ thể, thúc đẩy phát triển và nhân rộng các mô hình, giải pháp,
thực hành, công nghệ CSA (sau đây gọi chung là mô hình CSA) đã nêu ra trong Chiến
lược phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2011 – 2020 và 2021 – 2030, Kế hoạch
thực hiện thỏa thuận Paris về BĐKH trong nông nghiệp giai đoạn 2021 – 2030, Chương
trình lồng ghép nông nghiệp vào Kế hoạch hành động quốc gia thích ứng với BĐKH
(NAP-Ag) và các Chiến lược phát triển trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, phát triển nông
thôn. CSA được xác định là một trong số những biện pháp ứng phó mang tính tất yếu, ưu
tiên trong quá trình chuyển đổi nông nghiệp Việt Nam, bởi CSA đem lại các đồng lợi ích
rất cao về ứng phó BĐKH, kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế chính sách. Tuy vậy, để
thuận lợi cho việc triển khai các chính sách trong giai đoạn tới, các giải pháp ứng phó với2
BĐKH nói chung và CSA nói riêng cần được đánh giá một cách hệ thống, đầy đủ, có căn
cứ khoa học. Các giải pháp ưu tiên nên và phải phù hợp với bối cảnh thực hiện các cam
kết quốc tế, phù hợp với nguồn lực tài chính cũng như phù hợp với năng lực, các điều
kiện sản xuất đặc thù của địa phương.