Luận án Nghiên cứu điều kiện địa kỹ thuật phục vụ quy hoạch và xây dựng Thành phố Hải Dương
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 153 trang
- Lượt xem : 11
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_nghien_cuu_dieu_kien_dia_ky_thuat_phuc_vu_quy_hoach.pdf
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu điều kiện địa kỹ thuật phục vụ quy hoạch và xây dựng Thành phố Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Với mục đích phục vụ xây dựng, dựa vào: Bản đồ Địa chất công trình – Địa chất thủy văn, tỷ lệ 1/25.000 thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương) của tác giả Châu Văn Quỳnh năm 1999 [5]; Bản đồ Địa chất thủy văn sơ lược tỉnh Hải Dương tỷ lệ 1/300.000 (sách chuyên khảo Địa chất và tài nguyên khoáng sản tỉnh Hải Dương) do Phạm Văn Hoàn [35] chủ biên, năm 2008 và trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm thạch học, đặc điểm về tính thấm, tính chứa nước, đặc điểm thuỷ động lực, NCS chia khu vực nghiên cứu thành 5 tầng chứa nước. Từ trên xuống gồm các tầng chứa nước: Thổ nhưỡng, Holocene (qh), Pleistocene (qp), Neogene (m) và Paleozoi (pl). Trong phần này, NCS xin trình bày đặc điểm tầng chứa nước thổ nhưỡng và các tầng chứa nước trong các trầm tích Đệ Tứ (qh và qp). Đây là các tầng chứa nước quan trọng, liên quan trực tiếp đến việc phát sinh các vấn đề địa kỹ thuật, khi tính toán, thiết kế và thi công xây dựng công trình.
+Tầng chứa nước thổ nhưỡng: Tầng chứa nước này nằm ngay trên mặt, phân bố rộng khắp trong nội thành của thành phố, diện phân bố không liên tục. Nước chứa trong tầng đất san lấp, đất trồng, mực nước cách mặt đất không lớn, từ 0,5m đến xấp xỉ 1,0m. Bề dày tầng chứa nước chỉ khoảng xấp xỉ 1,0 đến 3,0m. Nguồn cung cấp nước cho tầng này là nước mưa và nước thải sinh hoạt. Nước có ảnh hưởng lớn tới việc thi công các hố móng cho nhà thấp tầng và các tầng hầm nhà cao tầng.
+ Tầng chứa nước Holocene (qh): Nước được chứa trong trầm tích cát của các hệ tầng Thái Bình và Hải Hưng. Mực nước trong tầng dao động trong khoảng từ 1,5 đến 3,0m. Sự phân bố của cát rất phức tạp: nơi thành lớp mỏng, thấu kính, dạng ổ xen kẹp trong lớp bùn sét, có nơi thành lớp tương đối dày, lộ ra ngay trên mặt như ở khu đô thị phía Đông Nam Cường, phường Thanh Bình, dọc theo sông Thái Bình và sông Sặt. Chiều dày của tầng chứa nước trung bình khoảng 6,9m (Bảng 2.5).