Đề tài Phòng vệ thương mại bằng công cụ thuế quan ở Việt Nam

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 101 trang
  • Lượt xem : 11
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phòng vệ thương mại bằng công cụ thuế quan ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng được mở rộng, đồng thời
Việt Nam đã ký kết các hiệp định thương mại mang tính toàn cầu, đặc biệt là việc
tham gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việc mở cửa với các nước ở trên
thế giới là cơ hội cũng như là thách thức cho Việt Nam.
Sự giao thoa giữa các nền kinh tế ngày càng được mở rộng và tăng cường.
Tuy vậy, với những ngành sản xuất còn non yếu thì tự do hóa thương mại có thể
dẫn đến nguy cơ làm tổn hại hoặc ngăn chặn sự phát triển của nền sản xuất trong
nước. Và từ đây, một nhu cầu thiết yếu được đặt ra chính là làm thế nào để ngăn
ngừa, hạn chế những thương tổn cho nền sản xuất nội địa.
Theo các số liệu thống kê cho thấy từ khi Việt Nam mới tham gia các tổ chức
thương mại nói chung cũng như chúng ta mới ký kết các FTA thì nhận thức của
doanh nghiệp về công cụ phòng vệ thương mại rất hạn chế.
Số liệu thống kê cho thấy, có tới 90% doanh nghiệp Việt Nam không có kiến
thức và hiểu biết về phòng vệ thương mại. Tuy nhiên, trong khoảng 1-2 năm trở
lại đây sau khi Việt Nam chịu các tác động tiêu cực từ việc hàng hóa nước ngoài
gia tăng nhập khẩu vào Việt Nam rất mạnh, nhất là các thị trường láng giềng như
Trung Quốc, Malaysia và Indonesia thì việc phòng vệ thương mại của các doanh
nghiệp đã tăng lên đáng kể.
Công cụ phòng vệ thương mại được coi như “van an toàn” mà các quốc gia
có thể sử dụng để bảo vệ nền sản xuất nội địa. Theo quy định của WTO Phòng vệ
thương mại có 2 công cụ chính là: phòng vệ thương mại bằng thuế quan và phi
thuế quan. Nhìn chung phòng vệ thương mại bằng công cụ thuế quan vẫn là công
cụ dễ sử dụng hơn cả so với các công cụ khác mà WTO cho phép.
Song ở nước ta thì việc áp dụng phòng vệ thương mại bằng công cụ thuế
quan chưa thực sự hiệu quả. Điều này được thể hiện qua số liệu thống kê các vụ
kiện phòng vệ thương mại. Việc hạn chế khả năng sử dụng công cụ này là sự bất
lợi lớn đối với Việt Nam đối với xu hướng hội nhập phát triển kinh tế.
Từ đây một vấn đề cấp thiết được đặt ra, đó là làm như thế nào để Việt Nam
có thể sử dụng công cụ phòng vệ thương mại một cách hiệu quả hơn. Đặc biệt
thuế quan là công cụ hữu hiệu để nhà nước có thể thực hiện sự điều tiết của mình.
Việc nâng cao hiệu quả công cụ này không chỉ mang đến lợi ích to lớn cho doanh
nghiệp mà còn là sự khẳng định vị thế của Việt Nam trên con đường hội nhập
quốc tế.