Luận án Chính sách hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 183 trang
  • Lượt xem : 10
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_chinh_sach_hop_tac_quoc_te_ve_khoa_hoc_cong_nghe_va.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chính sách hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Phát triển của Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã giúp cho sự phát
triển của quốc gia nói chung. Vai trò của Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
không chỉ được đề cập đến trong việc tăng tưởng kinh tế một quốc gia mà còn giải
thích sự phát triển của thương mại thế giới. Xu thế phát triển của thương mại quốc
tế đã đưa khoa học, công nghệ trở thành một loại hàng hóa đặc biệt với giá trị đóng
góp ngày càng lớn. Trong thời gian từ 2008 đến 2018, giá trị đóng góp của khoa học
công, nghệ trong thương mại quốc tế tăng từ 1,9 nghìn tỷ USD lên 3,2 nghìn tỷ
USD (Khan và đồng nghiệp, 2020). Các báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển
kinh tế (OECD) về năng lực cạnh tranh của các quốc gia nói chung và của các
ngành, lĩnh vực kinh tế nói riêng cho thấy thương mại trong sản xuất chủ yếu được
thúc đẩy bởi các ngành công nghệ. Nắm bắt được bí quyết và quy luật này, để duy
trì được năng lực cạnh tranh quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu, các nước đều
không ngừng nỗ lực cải thiện năng lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Nhận thức được nguy cơ tụt hậu về khoa học công nghệ từ đó có thể gây
giảm sút năng lực cạnh tranh và tiềm lực tăng trưởng của nền kinh tế, ngay từ
những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII (năm 1996) về “Định hướng chiến lược phát triển khoa học
công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”.
Tiếp theo đó trong “Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020” Đảng đã chỉ rõ
phát triển khoa học, công nghệ phải thực sự trở thành động lực then chốt trong quá
trình phát triển, và Hội nghị TW6 khoá XI đã thông qua Nghị quyết số 20-NQ/TW
ngày 31 tháng 10 năm 2012 về phát triển khoa học, công nghệ phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nhằm hiện thực hóa các chủ trương và đường lối của
Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam đã ban hành và triển khai nhiều chính
sách, chiến lược quan trọng như Quyết định 481/QĐ-TTg ngày 12 tháng 4 năm
2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển khoa học, công nghệ
là mục tiêu đồng thời là giải pháp quan trọng để góp phần đưa khoa học công nghệ2
của Việt Nam sớm đạt trình độ quốc tế. Gần đây Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 10 năm 2021-2030 đã xác định một trong các đột phá chiến lược là khoa học,
công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Theo đó, Chiến lược đã xác định
“Đẩy mạnh hội nhập và hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ, đa dạng hóa đối
tác, lựa chọn đối tác chiến lược là các quốc gia có nền khoa học, công nghệ tiên
tiến; gắn kết chặt chẽ giữa hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ với hợp tác kinh
tế quốc tế. Phát triển mạng lưới kết nối nhân tài người Việt Nam, thu hút sự tham
gia đóng góp của cộng đồng các nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài” là
một trong những nhiệm vụ chiến lược để thực hiện chính sách hợp tác quốc tế về
khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030.