Luận án Nghiên cứu khả năng thích ứng và một số biện pháp kỹ thuật đối với giống lê vh6 tại vùng núi phía bắc

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 210 trang
  • Lượt xem : 12
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_nghien_cuu_kha_nang_thich_ung_va_mot_so_bien_phap_ky.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu khả năng thích ứng và một số biện pháp kỹ thuật đối với giống lê vh6 tại vùng núi phía bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

3.1.2.5 Ảnh hưởng của các tiểu vùng sinh thái đến mức độ nhiễm sâu bệnh hại của giống lê VH6 năm 2018 – 2019Đối với các cây trồng nói chung và cây lê nói riêng, sâu và bệnh là đối tượng gây tổn hại rất lớn đến sinh trưởng, phát triển, năng suất và sản lượng, đặc biệt khi ẩm độ cao, mưa phùn, nhiệt độ ấm tạo điều kiện cho sâu bệnh hại phát triển.Kết quả cho thấy tại bảng 3.5 cho thấy:Ruồi đục quả (Bactrocera cucurbitae) là đối tượng gây hại đặc biệt nguy hiểm với quả lê, nếu không có biện pháp phòng trừ hữu hiệu thì có thể lên tới 100% số quả bị hại. Tại các thí nghiệm vườn lê đã xuất hiện ruồi đục quả và gây hại ở tất cả các tiểu vùng sinh thái ở mức độ hại nhẹ (10-25%), chính vì vậy để đảm bảo năng suất và chất lượng quả cần phải áp dụng biện pháp bao quả.Rệp mềm (Phorodon humili) xuất hiện gây hại ở các độ tuổi và bệnh đốm đen trên lá, tuy nhiên mức độ gây hại của chúng trên giống lê VH6 không ở mức nghiêm trọng từ ít (10%) đến nhẹ (10-25%).Sâu đục thân (Stromodium longicornenneu man) xuất hiện và gây hại ở tất cả các điểm và các tuổi cây từ ít (10%) đến nhẹ (10-25%).Bệnh thối rễ, thối thân (10hB (10%) đến nhẹ (Phytophthora sp.) chưa xuất hiện và gây hại ở trên cây lê 2 tuổi và cây lê 5 tuổi tại tất cả các điểm thí nghiệm, nhưng gây hại trên cây lê 10 tuổi ở mức độ từ hại ít đến hại trung bình, trong đó tại Sa Pa, Lào Cai bệnh gây hại ở mức nặng nhất (25-50 %); các điểm Bắc Hà và Ngân Sơn chỉ bị gây hại ở mức ít (10%). Đều này có thể được giải thích là do độ ẩm tại Sa Pa (85%) cao hơn nhiều so với Bắc Hà và Ngân Sơn là môi trường thích hợp cho bệnh thối thân thôi rễ do nấm (Phytophthora sp.) phát triển và gây hại