Luận án Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tài trợ nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật ở Việt Nam

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 259 trang
  • Lượt xem : 12
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_nghien_cuu_thuc_trang_va_de_xuat_mot_so_giai_phap_nh.docx
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tài trợ nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Chất lượng tài trợ NCCB nói riêng và chất lượng chương trình khoa học nói chung đã được nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới, từ các nước phát triển như Mỹ, Đức. Trong đó tại Mỹ (Luật về Thực hiện và Kết quả của Chính phủ – GPRA,1993), tại Mỹ Luật này yêu cầu các cơ quan về KH&CN thực hiện việc đánh giá các chương trình của Chính phủ Liên bang nhằm tăng hiệu suất, hiệu quả tài trợ từ tài chính công và hơn hết tăng tính trách nhiệm trong các chương trình này. Tại Đức (Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Cộng hòa Liên Bang Đức – BMBF) hàng năm sẽ tổ chức đánh giá các chương trình do Bộ tài trợ các hoạt động KH&CN, mục đích của việc này là đánh giá hiệu quả, hiệu suất tài trợ từ ngân sách nhà nước để giúp Bộ có thể chủ động điều chỉnh, hoặc thậm chí ngừng tài trợ cho những hoạt động không hiệu quả để không lãng phí tiền bạc. Đối với các nước đang phát triển như Hàn Quốc (Luật về Cải cách KH&CN, 1997) được ban hành trong đó Viện Đánh giá và lập kế hoạch KH&CN Hàn Quốc (KISTEP) ra đời năm 1998 đã đã giúp quốc gia này thực hiện việc phân tích, đánh giá chất lượng, hiệu quả, hiệu suất các chương trình nghiên cứu và phát triển (R&D) cấp quốc gia có kinh phí đầu tư từ ngân sách trên 10 triệu đô la Mỹ và có tầm ảnh hưởng quan trọng với chiến lược phát triển KH&CN của Hàn Quốc. Tại Trung Quốc, Trung tâm đánh giá KH&CN Quốc gia (NCSTE) ra đời năm 1994 đã giúp Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc đánh giá hiệu quả và hiệu suất các chương trình KH&CN do nhà nước tài trợ để giúp Nhà nước ra quyết định đầu tư tiếp hoặc dừng đầu tư.
Bên cạnh các hành động từ cấp Quản lý, nhiều tác giả trên thế giới cũng nghiên cứu về chất lượng tài trợ NCCB và lợi ích tài trợ cho hoạt động này như tại Mỹ có nghiên cứu của Storey và Tether (1998), McMillan và Hamilton (2002); tại Anh có các nghiên cứu của Martin và cộng sự (1996) và đa số các nước đang phát triển trong đó điển hình như Li Zhquang và J Iang Jingnan (2006); Song Hefa, Ren Zhongbao và Mu Rongping (2005); LI Yan-Ping, GUO Wei và Huang Xia (2009). Điều này cho thấy, chất lượng tài trợ công cho NCCB là một vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Nghiên cứu về chất lượng tài trợ NCCB cũng được thực hiện thông qua việc đánh giá kết quả hoạt động nghiên cứu như chất lượng các công bố khoa học, chất lượng đào tạo nhân lực khoa học thông qua hoạt động này. Nhiều tác giả đã đánh giá các giá trị này trong đó có nghiên cứu của Cohen và Levinthal (1989) chỉ ra nhà khoa học khi nhận được tài trợ cho hoạt động nghiên cứu có thể phát triển kiến thức ngầm và cung cấp “năng lực” hấp thụ cần thiết cho việc xác định và tiếp thu tri thức khoa học. Nghiên cứu của Grant và nnk (2003) đã chỉ ra 21% các công bố quốc tế là tiền đề cho các ứng dụng trong chữa bệnh về tim mạch, còn Hanney và nnk (2003 và 2004) thì chỉ ra rằng tác động từ NCCB đã giúp giảm tỷ lệ tử vong và bệnh tật trong lĩnh vực y sinh, tiết kiệm chi phí thiết bị y tế trong chữa bệnh. Các nghiên cứu của De Solla Price (1965); Cooke và Morgan (1993); Darby và nnk (2003) chỉ ra rằng thông qua hoạt động NCCB các nhà khoa học được thường xuyên trao đổi giao lưu học thuật với nhau, điều đó giúp họ nhanh chóng tiếp thu các vấn đề cụ thể để được nhận thông tin hoặc tư vấn từ các chuyên gia đầu ngành. Đây được coi là chìa khóa để tạo dựng mối quan hệ tin cậy trong nghiên cứu khoa học, được đánh giá là một chỉ số ngầm của việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong hoạt động khoa học và công nghệ. Ngoài nâng cao kỹ năng cho các nhà khoa học, các nghiên cứu của Gibbons và Johnston (1974); Martin và Irvine (1981); Rossner và nnk (1998); Zeller (2002) còn chỉ ra rằng thông qua việc tiếp xúc với hoạt động NCCB các sinh viên đại học và sau đại học có cơ hội được đào tạo tốt hơn các kỹ năng nghiên cứu, phát triển ý tưởng nghiên cứu một cách chủ động hơn, có khả năng sử dụng các thiết bị kỹ thuật tiên tiến tốt hơn, khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp cũng ngày càng tốt hơn.