Tiểu luận Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế
- Người chia sẻ :
- Số trang : 34 trang
- Lượt xem : 8
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Trước những năm 90 trên thếgiới, hầu hết các nước đều chọn khối lượng tiền (M2, M3 ) hoặc tỉgiá làm mục tiêu trung gian trong điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) quốc gia. Tuy nhiên, vào đầu những năm 90, một số nước phát triển đã có sự thay đổi trong việc lựa chọn các mục tiêu trung gian tương tự, mà tập trung vào chỉsốlạm phát. Cách tiếp cận mới này tập trung vào nhiệm vụkiểm soát lạm phát và được gọi là lạm phát mục tiêu (Inflation Targeting). Chính sách lạm phát mục tiêu là chính sách mà ngân hàng trung ương (NHTW) sẽ đưa ra mục tiêu lạm phát trong một thời gian khá dài (thường là 5 năm) và được quyền chủ động sửdụng các công cụchính sách tiền tệ như nghiệp vụthị trường mở, lãi suất cơ bản, tỷgiá .v.v để đạt mục tiêu đó. Một chính sách lạm phát mục tiêu được coi là thành công nếu rong quá trình thực hiện lạm phát sẽvận động xoay quanh mức mục tiêu đã đềra. Chính sách lạm phát mục tiêu được áp dụng nhiều bởi các nước phát triển và các nước mới nổi khi lãnh đạo các nước nhận định rằng, lạm phát hay nói cách khác ổn định giá là mục tiêu chính của chính sách tiền tệ. Tùy từng thời kỳ, mức lạm phát mục tiêu có thểcó những điều chỉnh theo năm, tuy nhiên mức điều chỉnh không quá lớn so với định hướng dài hạn đã xác định từthời gian trước. Từ đầu những năm 90 thế kỷ 20, một số quốc gia đã tiên phong áp dụng nó là NHTW New Zealand (1990); NHTW Canada (1991); Vuong quốc Anh (1992); Phần Lan, Thụy Ðiển, Úc (1993) Ngày nay, có khoảng 30 quốc gia đang áp dụng phương pháp tiếp cận mới này và gần một nửa trong số đó là các quốc gia thuộc nhóm thịtruờng mới nổi hoặc quốc gia có thu nhập thấp. Ngoài ra, một sốNHTW của các nền kinh tếphát triển hơn – bao gồm ECB, FED, Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) và Ngân hàng Quốc gia Thụy Sỹ-đã vận dụng nhiều nội dung trong chính sách mục tiêu lạm phát, và một sốkhác thì đang trong quá trình chuyển đổi sang chính sách mục tiêu lạm phát. Việt Nam cũng đang bắt đầu nghiên cứu và định hướng chuyển đổi sang chính sách tiền tệ này đểthực hiện mục tiêu kiềm chếlạm phát trong bối cảnh nền kinh tếhiện nay. Vậy việc theo đuổi một chính sách mục tiêu lạm phát trong trung và dài hạn hạn cùng với việc sửdụng những công cụchính sách tiền tệ tác đông vào nền kinh tế đểkiềm chếlạm phát theo mục tiêu đã đặt ra trước này có ảnh hưởng thế nào đến tăng trưởng kinh tếcủa quốc gia và cụthểtrong bối cảnh nền kinh tếcủa nước ta? Bài tiểu luận của Nhóm 10 sẽtìm hiểu vềmối quan hệcủa giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế, đồng thời đánh giá khả năng áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu ởViệt Nam.
