Luận án Ứng dụng lý thuyết thị trường hiệu quả trong phân tích thị trường chứng khoán Việt Nam
- Người chia sẻ :
- Số trang : 194 trang
- Lượt xem : 8
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Ứng dụng lý thuyết thị trường hiệu quả trong phân tích thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Xây dựng thị trường vốn là bước tất yếu để hình thành cơ cấu vận hành của mọi nền kinh tế thị trường. Đối với Việt Nam, vấn đề này lại càng trở nên quan trọng khi chúng ta đang dốc mọi cố gắng tiếp tục công cuộc đổi mới kinh tế. Thị trường chứng khoán Việt Nam, một công cụ đắc lực giúp huy động vốn, sử dụng vốn, tập trung và phân tán các nguồn tiết kiệm, được ra đời vào 7/2000 đã khẳng định điều đó. Kể từ đó thị trường chứng khoán đã có những đóng góp nhất định cho nền kinh tế. Tuy vậy, trong quá trình phát triển của mình, thị trường chứng khoán cho thấy nó chưa thật sự ổn định. Thể hiện ở chỗ cókhi trong thời gian rất ngắn, có khi các chỉ số thị trường còn rất thấp, nóđã tiến đến những kỷ lục đáng kể, và ngược lại khi đang ở trên thế thượng phong thì thị trường lại có thể tụt dốc một cách thê thảm khó mà tưởng tượng nổi. Và tất nhiên, theo nghĩa là phong vũ biểu cho nền kinh tế và đúng bản chất của thị trường chứng khoán thì thị trường của Việt Nam chưa có được điềuđó. Đã có nhiều các tác giả trên các diễn đàn về thị trường chứng khoán tỏ ra băn khoăn, không ít công ty chứng khoán không định hướng được, có khá nhiều nhà đầu tư tỏ ra khó xử khi tham gia thị trường Hiệu quả đầu tư và hiệu quả của thị trường hiện ở mức nào, thị trường chứng khoán có đáng tin cậy và công bằng đối với mọi người hay không, nếu tham gia liệu thành công đến hay bị thua thiệt?. Đó chính là nhiều câu hỏimà người đầu tư đặt ra mà thượng tầng của thị trường chứng khoán Việt Nam cầnphải giải đáp và tìm ra được những quỹ đạo quản lý phù hợp. Nghiên cứu về Lý thuyết thị trường hiệu quả (EMH) sẽ giúp làm sáng tỏ một số vấn đề liên quan trên. Theo hướng định lượng, khi phân tích về tính hiệu quả của thị trường chứng khoán tại các nước, lý thuyết thị trường hiệuquả được xem như công cụ trung tâm, rất quan trọng và dường như là sự lựachọn đầu tiên, tuy vậy ở Việt Nam, lý thuyết này được ứng dụng còn ít và mọisự hiểu biết và khai thác hầu như còn rất hạn chế. Để đưa ra những đánh giá về thị trường chứng khoán Việt Nam, luận án đã dựa vào Lý thuyết thị trường hiệu quả – lý thuyết quan trọng bậc nhất của nền tài chính học hiện đại, và đề tài “Ứng dụng lý thuyết thị trường hiệu quả trong phân tích thị trường chứng khoán Việt Nam” sẽ là một vấn đề đáng được quan tâm cả phương diện lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích nghiên cứu của luận án Trong khi phân tích tính hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam, luận án sẽ phải tập trung trả lời các câu hỏi sau: – Lý thuyết thị trường hiệu quả là gì? Tầm quan trọng và ứng dụng của nó thế nào trong phân tích tính hiệu quả của một thị trường chứng khoán. – Thị trường chứng khoán Việt Nam có hiệu quả không? Hiệu quả ở dạng nào? Yếu, mạnh hay trung bình? – Nếu thị trường chứng khoán Việt Nam chưa hiệu quả, hoặc tính hiệu quả còn yếu, có thể làm cho thị trường trở nên hiệuquả hơn hay không? Giải đáp các vấn đề đó, luận án sẽ hướng tới giải quyết một số công việc cụ thể sau: – Làm rõ các khái niệm về lý thuyết thị trường hiệuquả, ứng dụng của lý thuyết này trong thị trường chứng khoán, nêu ra được các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ hiệu quả của thị trường trên phương diệnthông tin. – Kiểm định về tính hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam, đưa ra được các kết luận về mức độ hiệu quả. – Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quảcho thị trường chứng khoán Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Phân tích, đánh giá tính hiệu quả của thị trường chứng khoán có rất nhiều góc độ nghiên cứu, luận án tập trung phân tích hiệuquả về mặt thông tin (không xem xét đến hành vi của các chủ thể cũng như về mặttổ chức quản lý của thị trường). Chứng khoán có nhiều loại hàng hoá, và chủ yếu là cổ phiếu và trái phiếu, tuy nhiên cổ phiếu có tính thanh khoản cao và giao dịch nhiều, phù hợp với nghiên cứu EMH và là lựa chọn nghiên cứu của luận án. Luận án nghiên cứu thị trường chứng khoán Việt Nam trên thị trường chính thức, và các số liệu từ Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội, luận án không nghiên cứu các thị trường khác như thị trường OTC, thị trường tự do. 4. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng kết hợp một số phương pháp trong nghiên cứukhoa học là: + Kết hợp phân tích định tính và định lượng: Cụ thểtrong chương 2, phân tích tính hiệu quả về mặt thông tin của TTCK Việt Nam, luận án đã đánh giá bằng định tính, trực quan từ những quan sát được về sự không hiệu quả (vấn đề truyền thông, vấn để minh bạch thông tin ). Đồng thời các đánh giá về mặt định tính cũng phù hợp với việc kiểm định TTHQ về mặt thông tin qua các phương pháp tham số, phi tham số với bộ dữ liệu của TTCK Việt Nam. + Phương pháp mô hình hoá, biểu đồ: Luận án đã xây dựng và chọn lọc một số mô hình kinh tế lượng phù hợp với việc kiểm định cho TTCK Việt Nam. Đồng thời biểu đồ cũng là phương pháp không thể thiếu trong luận án để phục vụ cho việc phân tích TTHQ dạng trung bình. + Phương pháp thống kê, kinh tế lượng: Được sử dụngrất nhiều trong chương 2 của luận án để đưa ra được các kết quả và kết luận cho các dạng hiệu quả của thị trường. + Một số phần mềm phân tích số liệu: Luận án đã sử dụng một số phần mềm thống kê, kinh tế lượng thông dụng, như Excel, Eview, SPSS. 5. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước về lý thuyết thị trường hiệu quả Việc nghiên cứu lý thuyết thị trường hiệu quả (EMH)được áp dụng nhiều trong khoảng 40 năm trở lại đây tại các nước phát triển. Các thực nghiệm kiểm định tính hiệu quả của các thị trường chứng khoán lại làm cơ sở cho phát triển lý thuyết. Tại thị trường chứng khoán của các nước phát triển như Anh, Mỹ, Pháp, các tác giả chủ yếu tập trung kiểm định thị trường hiệu quả dạng yếu với xuất phát điểm là kiểm định theo lý thuyết bước ngẫu nhiên và một số là trung bình và đều cho kết luận rằng thị trường các nước này đều đạt hiệu quả dạng yếu Jensen (1978), Lucas (1978), Roberts (1967), Samuelson (1965) (Theo [21]). Sau này cùng với sự phát triển, hội nhập kinh tế, EMH cũng được nghiên cứu, áp dụng tại các thị trường chứng khoán của những nước mới nổi và đang phát triển. Thực tế các kết quả tìm được cóthể được chia làm hai nhóm. Theo [26], nhóm ủng hộ cho EMH dạng yếu bao gồm: Branes (1996) về thị trường chứng khoán Kuala Lumpur; Chan, Gup và Pan (1992) về một số thị trường của Châu Á; Dickinson và Muragu (1994) về thị trường Nairobi và Ojaa và Karemera (1999) về thị trường của bốn nước thuộc Châu Mỹ la tinh, Nhóm còn lại cho các kết luận về sự không hiệu quả của thị trường, bao gồm Chengung, Wong và Ho (1993) ở thị trường chứng khoán Hàn Quốc và Đài Loan, Dasgupta và Glen (1995) về kết quả nghiên cứu đối với 19 thị trường mới nổi; Harvey (1994) đối với hầu hết các thị trường mới thành lập; Roux và Gilberson (1976, 1996) về thị trường chứng khoán Ấn Độ; Nourrendine Kababa (1998) với thị trường Saudi, và gần đây là các nghiên cứu của Asma Mobarek và Keavin Keasy (2000) của thịtrường chứng khoán Bangladesh; Stephen Hall và Giovanni Urga (2002) vềthị trường của Nga; Gediminas Milieska (2004) về thị trường Lithuanian, Tóm lại, tại các thị trường chứng khoán phát triển thì dạng yếu của EMH đều thỏa mãn, còn lại các thị trường chứng khoán mới nổi và đang phát triển thì còn nhiều tranh cãi, chỉ một số nhỏ các thị trường thỏa mãn EMH dạng yếu. Tại Việt Nam, thị trường chứng khoán là một thị trường non trẻ, chỉ được thành lập và hoạt động chưa đến một thập kỷ, và đang trong quá trình hoàn thiện về cơ chế, luật pháp, cơ sở hạ tầng côngnghệ, thiếu các điều kiện cần thiết để tập trung hoạt động hiệu quả. Việc nghiên cứu về EMH hầu như là các nghiên cứu định tính phổ biến rất nhỏ về khái niệm EMH (Lê Mai – báo ĐTCK số tháng 8 – 2007), hoặc nằm trong phần rất nhỏ tại các sách giáo trình cơ bản về TTCK như của Nguyễn Đăng Nam (CB) – Học viện Tài chính (2006) trong cuốn Phân tích và đầu tư chứng khoán, Vũ Việt Hùng – Đại học Bách Khoa trong cuốn Đầu tư tài chính (2003), Bùi Viết Thuyên (2000) trong Cẩm nang nhà kinh doanh chứng khoán Việt Nam,. Về phân tích định lượng, hầu như các nghiên cứu tập trung vào kiểm định thị trường hiệu quả dạng yếu. Một công bố khá sớm về kiểm định EMH dạng yếu, đó là của Thái Long (2004) trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ (Dự án cao học Việt Nam – Hà Lan). Tuy vậy, trong nghiên cứu này tác giả sử dụng số liệu đó còn rất ít, mới chỉ có chưa được 4 năm hoạt động của thị trường và mới chỉcó TT- GDCKTP Hồ Chí Minh, chưa có HaSTC. Hơn nữa, phương pháp áp dụng đơn giản (chỉ dùng mô hình ARIMA). Kết luận về thị trường lúc đó là hiệu quả yếu. Tiếp theo, vào năm 2006, tác giả Hồ Viết Tiến nghiên cứuthị trường cổ phiếu của Việt Nam theo các phương pháp kiểm định hệ số tươngquan đối với một số cổ phiếu và có kết luận thị trường cổ phiếu Việt Nam chưa hiệu quả về mặt thông tin. Sau đó, năm 2007 tác giả Lê Đạt Chí – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh tiến hành một kiểm định (theo phương pháp hồi quy hai biến) đối với một số cổ phiếu chủ chốt tại HOSE và cũng cho kết luận về sự không hiệu quả dạng yếu của TTCK Việt Nam. Cũng năm 2007 tác giả Trương Đông Lộc tiến hành đánh giá TTCK Việt Nam xét trường hợp TTGD Hà Nội, với phương pháp kiểm định hệ số tự tương quan và kiểm định tương quan chuỗi (kiểm định đoạn mạch) và có kết luận về sự không hiệu quả của HaSTC Liên quan đến nghiên cứu về EMH, trong năm 2008 có một công bố của Nguyễn Việt Dũng – Đại học Ngoại thương tìm hiểu về mối quan hệ giữa thông tin báo cáo tài chính và giá cổ phiếu (thị trường hiệu quả dạng trung bình nới lỏng). Tác giả sử dụng chủ yếu mô hình Ohlson (1995) để xây dựng cho trường hợp của Việt Nam [7]. Trong công trình này tác giả cũng chỉ xét một phần rất nhỏ EMH dạng trung bình để phục vụ chonghiên cứu của mình. Tóm lại, đến thời điểm luận án này được hoàn thành,tại Việt Nam chưa có một nghiên cứu EMH nào được đề cập một cách bài bản, độc lập và toàn diện về cả lý thuyết và thực hành. EMH là một lý thuyết nền tảng của tài chính học hiện đại, vì vậy nó nên được khuyến khích nghiên cứu nhiều hơn và toàn diện hơn nữa tại Việt Nam để đóng góp lý luận giúp hoàn thiện thêm tính hiệu quả cho thị trường chứng khoán Việt Nam. 6. Bố cục của luận án – Tên đề tài: Ứng dụng lý thuyết thị trường hiệu quả trong phân tích thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục đính kèm, luận án được xây dựng theo 3 chương: – Chương 1: Cơ sở lý thuyết của thị trường hiệu quả. – Chương 2: Kiểm định tính hiệu quả của thị trường chứng khoán Việt Nam. – Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả cho thị trường chứng khoán Việt Nam.