Luận văn Hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 137 trang
  • Lượt xem : 9
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta không ngừng đổi mới, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện nay của Nhà nước là phải đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, chú trọng đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhằm đảm bảo cho các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng hoạt động hiệu quả. Trong đó, việc đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân, hoàn thiện hệ thống pháp luật thực hành quyền công tố là một mắt khâu quan trọng. Ngày 2/1/2002, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW, về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết chỉ rõ: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác [16]. Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, trong đó có nội dung: “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên cứu hướng tới chuyển thành Viện công tố” [17]. Ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định: “Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra” [18]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục ghi nhận các nội dung: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện hệ thống pháp luật; xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh; đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra Hiện nay, trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt khi Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới, việc giao lưu, ảnh hưởng giữa các nền kinh tế thế giới tất yếu dẫn đến sự ảnh hưởng đan xen lẫn nhau về văn hoá, chính trị, xã hội, trong đó có pháp luật. Quá trình hội nhập, hệ thống pháp luật của mỗi nước ít nhiều có ảnh hưởng đến hệ thống pháp luật của các nước khác trên thế giới; và lẽ tất nhiên hệ thống pháp luật của nước ta phải tự hoàn thiện để dần phù hợp với hệ thống pháp luật chung của thế giới. Thời gian qua, các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng đã có nhiều cố gắng trong việc góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống pháp luật về thực hành quyền công tố còn thiếu đồng bộ, thiếu tính cụ thể, minh bạch, chưa phù hợp, chưa tương thích trong điều kiện hội nhập. Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn đáp ứng yêu cầu bức xúc của nư¬ớc ta trong thời kỳ đổi mới. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Nhằm hiện thực hoá chủ trương về cải cách tư pháp, trong đó Viện kiểm sát nhân dân sẽ hướng chuyển thành Viện công tố, những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến vấn đề này. Qua tìm hiểu các tài liệu hiện hành cho thấy các công trình khoa học tập trung nghiên cứu theo những khía cạnh sau: – Nhóm nghiên cứu chung về đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân: Những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, điển hình như: Lê Minh Thông (Chủ biên): Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nư¬¬ớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (Nxb Khoa học xã hội), Hà Nội, 2001; Ngô Văn Đọn (Chủ biên): Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong các công tác kiểm sát hình sự, (Đề tài khoa học cấp bộ), Hà Nội, 2004; La Thị Sức: Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay (Luận văn thạc sỹ luật học), Hà Nội, 1998; Hoàng Thế Anh: Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam (Luận văn thạc sỹ luật học), Hà Nội, 2006; Khuất Văn Nga: Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thời kỳ đổi mới (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2005; Lê Cảm: Bàn về tổ chức quyền tư pháp-nội dung cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2005; Phạm Hồng Hải: Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2006; Đỗ Văn Đương: Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2006 – Nhóm nghiên cứu về quyền công tố: Những công trình là đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, sách chuyên khảo, các bài viết liên quan đến quyền công tố: Lê Hữu Thể (Chủ biên): Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra (Sách tham khảo), Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005; Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, (Luận án tiến sỹ luật học), Hà Nội, 2002; Lê Hữu Thể: Bàn về khái niệm quyền công tố, (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2000; Lê Cảm: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2000. Những công trình khoa học, những bài viết trên đây đã tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói chung; đồng thời đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu về quyền công tố, thực hành quyền công tố trên một số lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện việc “hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”. Mặc dù vậy, các công trình khoa học, các bài viết trên đây là những tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn – Mục đích Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật thực hành quyền công tố, luận văn nêu ra một số quan điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. – Nhiệm vụ của luận văn Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau: + Phân tích cơ sở lý luận về hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố Việt Nam. + Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt Nam. + Đề xuất những quan điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu – Đối tượng nghiên cứu Trong khuôn khổ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về quyền công tố và pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt Nam và một số nước trên thế giới. – Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn là pháp luật thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân, tập trung chủ yếu từ thời kỳ đổi mới (năm1986) đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu – Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn là học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật nói chung và tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng. – Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích- tổng hợp, lịch sử- cụ thể; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: So sánh, thống kê, điều tra xã hội học. 6. Điểm mới khoa học của luận văn Luận văn là tài liệu chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt Nam. Vì vậy có một số điểm mới sau: – Làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền công tố; thực hành quyền công tố; khái niệm, các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố. – Chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân của pháp luật và áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố. – Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt Nam hiện nay. 7. Ý nghĩa của luận văn – Kết quả luận văn góp phần làm sáng tỏ, phong phú thêm lý luận về pháp luật nói chung và lý luận hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố nói riêng. – Luận văn có thể dùng làm tài liệu cho việc nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố đối với các nhà hoạch định chính sách, xây dựng luật và những ai quan tâm đến vấn đề này. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương 8 tiết.