Luận văn Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam
- Người chia sẻ :
- Số trang : 92 trang
- Lượt xem : 14
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
Luan van - chinh thuc.doc
Bia - ThS.doc
Cam doan.doc
De cuong - Bia.doc
De cuong.doc
Muc luc.doc
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong xã hội hiện đại, các quốc gia, một mặt nỗ lực hướng vào và phát huy mọi nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra bước phát triển bền vững và ngày càng phồn vinh cho đất nước; mặt khác, không ngừng hoàn thiện hệ thống (an sinh xã hội) ASXH, trước hết là bảo hiểm xã hội (BHXH) để giúp cho con người, người lao động có khả năng chống đỡ với các rủi ro xã hội, đặc biệt là rủi ro trong kinh tế thị trường và rủi ro xã hội khác. Kinh tế ngày càng phát triển theo hướng thị trường, thì ASXH càng phải đảm bảo tốt hơn. Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động. Chính vì vậy, ngay từ khi thành lập nước, Chính phủ đã ban hành các đạo luật về BHXH. BHXH đã không ngừng phát triển và trong từng thời kỳ nó đã đóng vai trò không nhỏ trong việc đảm bảo ASXH cho đất nước. Tuy nhiên, trải qua một thời gian dài BHXH cũng chỉ phục vụ đối tượng người lao động thuộc các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước. Đến ngày 1 tháng 1 năm 1995, Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành, tại Điều 140 đã quy định các loại hình BHXH bắt buộc hoặc tự nguyện được áp dụng đối với từng loại đối tượng và từng loại doanh nghiệp để bảo đảm cho người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm thích hợp. Thi hành bộ luật này, ngày 26/01/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/CP quy định Điều lệ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước và Nghị định 45/CP ngày 15/07/1995 đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng. Năm 2007, dân số cả nước có khoảng 85,2 triệu người, lực lượng lao động có khoảng 46,6 triệu người. Lao động có việc làm trong nền kinh tế quốc dân khoảng 45,6 triệu người, trong đó đối tượng tham gia BHXH bắt buộc (lao động làm công ăn lương hay còn gọi là lao động khu vực chính thức) có khoảng 12,3 triệu người (27% lực lượng lao động) [26]. Còn lại 33,3 triệu lao động (73%) làm việc trong nông nghiệp (nông dân), khu vực phi nông nghiệp trong nông thôn, lao động tự do hành nghề (kể cả lao động nhập cư), lao động trong hộ gia đình sản xuất kinh doanh có thể ở thành thị (lao động khu vực phi chính thức) trong lực lượng lao động chưa tham gia BHXH. Như vậy, BHXH mới chỉ tập trung chủ yếu ở khu vực chính thức còn BHXH khu vực khu vực phi chính thức phát triển chưa đáng kể cả về quy mô và chất lượng. Đến 2009, dân số cả nước có khoảng 86,1 triệu người, lực lượng lao động có khoảng 49,2 triệu người (57,4%). Lao động có việc làm trong nền kinh tế quốc dân khoảng 47,7 triệu người, trong đó lao động làm công ăn lương (khu vực chính thức) có khoảng 18.2 triệu người (38,2% lực lượng lao động), còn lại 29,5 triệu lao động (61,8%) thuộc khu vực phi chính thức [28]. Sau hai năm thực hiện BHXH tự nguyện theo Luật BHXH số 71, số lượng người tham gia BHXH tự nguyện còn rất hạn chế chỉ chiếm khoảng 0,15% số lao động thuộc khu vực này. Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, thì hệ thống ASXH, nhất là BHXH phải được phát triển và hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu của người lao động, của nhân dân, là một trong những nhu cầu rất cơ bản của con người. Bảo đảm nhu cầu về ASXH, trước hết là nhu cầu về BHXH, là một trong những mục tiêu rất quan trọng, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng phù hợp với xu thế chung của cộng đồng quốc tế hướng tới một xã hội phồn vinh, công bằng và an toàn. Sự phát triển kinh tế thị trường đã mang lại cho đất nước những biến đổi sâu sắc về kinh tế – xã hội. Kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, thu nhập bình quân của người lao động ngày càng cao, đời sống kinh tế và xã hội của nhân dân có sự cải thiện rõ rệt. Vấn đề cải thiện và nâng cao mức sống của người lao động luôn là mục tiêu trước mắt, cũng như lâu dài của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Bên cạnh việc ban hành các chính sách nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân”. Vì vậy, việc phát triển BHXH tự nguyện đối với người lao động khu vực phi chính thức là hết sức cần thiết. Luật BHXH ra đời có hiệu lực thi hành từ năm 2007. Riêng chế độ BHXH tự nguyện được áp dụng từ năm 2008. Đây là luật đầu tiên ở Việt Nam đó thể chế hóa ở mức cao của một nhu cầu rất cơ bản về ASXH của con người (bao gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp), trong đó BHXH tự nguyện chủ yếu cho đối tượng là người lao động khu vực phi chính thức tức là người lao động làm việc không thuộc phạm vi tham gia BHXH bắt buộc. Như vậy, lần đầu tiên người lao động ở mọi khu vực có quyền tham gia BHXH và được thụ hưởng lợi ích từ BHXH. Việc triển khai BHXH tự nguyện mặc dù còn mới, nhưng do hệ thống BHXH đã phân cấp tổ chức bộ máy hoạt động đến cấp huyện và có đại lý đến cấp xã, phường rất thuận lợi cho người lao động tiếp cận để tham gia. Tuy nhiên, qua hai năm triển khai thực hiện, số lượng người lao động tham gia BHXH tự nguyện ở khu vực phi chính thức còn rất hạn chế (khoảng 41.000 người) chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động khu vực phi chính thức, cũng như định hướng phát triển của Đảng, Nhà nước. Nguyên nhân số lượng người tham gia BHXH tự nguyện ở nước ta còn ít là do: trình độ học vấn và nhận thức xã hội còn nhiều hạn chế; lao động phần lớn chưa qua đào tạo; việc làm bấp bênh; thu nhập thấp là những vấn đề ảnh hưởng lớn đến việc triển khai thực hiện BHXH tự nguyện cho người lao động thuộc khu vực này. Vấn đề cần đặt ra là làm thế nào để người lao động nhận thức được sự cần thiết tham gia BHXH; Giải pháp nào giải quyết việc tham gia BHXH của người lao động khi thu nhập bấp bênh; Vấn đề thể chế và tổ chức thực hiện, đội ngũ cán bộ quản lý. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam” làm đề tài luận văn. Luận văn nhằm bổ sung, hoàn thiện và góp phần tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình phát triển BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức ở nước ta hiện nay. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của luận văn Ở nước ta, BHXH đã được hình thành ngay từ những năm đầu thành lập nước, tuy nhiên chỉ áp dụng hình thức BHXH bắt buộc. Cùng với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, đòi hỏi cần phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống BHXH theo cả hai hình thức bắt buộc và tự nguyện. Chính vì vậy những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này, tuy nhiên tập trung chủ yếu về lĩnh vực BHXH bắt buộc. Đối với BHXH tự nguyện, các công trình nghiên cứu đã đề cập tới phải kể đến là: “Cơ sở lý luận về việc thực hiện các loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tiến Phú, đề tài cấp Bộ năm 2001, trong đó tác giả mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, làm cơ sở khoa học cho việc thực hiện loại hình BHXH tự nguyện ở Việt Nam, chứ chưa nghiên cứu sâu về nội dụng, hình thức, tổ chức quản lý quá trình phát triển loại hình BHXH tự nguyện; Hai công trình nghiên cứu tiếp theo là: “Nghiên cứu mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đối với người lao động tự tạo việc làm và thu nhập” của tác giả Bùi Văn Hồng, đề tài cấp Bộ năm 2002; “Giải pháp mở rộng đối tượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội khu vực kinh tế tư nhân theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước” của tác giả Kiều Văn Minh, đề tài cấp Bộ năm 2003 tập trung nghiên cứu các giải pháp mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, chưa đề cập đầy đủ mối quan hệ lợi ích giữa người lao động khu vực phi chính thức và chế độ BHXH tự nguyện; Đề tài “Cơ sở khoa học quản lý và tổ chức thu bảo hiểm xã hội tự nguyện” của tác giả Nguyễn Anh Vũ, đề tài cấp Bộ năm 2003, mới chỉ đề cập đến vấn đề thu BHXH tự nguyện; Công trình “Nghiên cứu xây dựng lộ trình tiến tới thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động” của tác giả Nguyễn Tiến Phú, đề tài cấp Bộ năm 2004, đã tập trung nghiên cứu lộ trình và các bước tiến hành thực hiện BHXH tự nguyện, nhưng nghiên cứu này thực hiện trong bối cảnh chưa có Luật BHXH; Đề tài “Mô hình thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện ở một số nước trên thế giới và những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam” của tác giả Đào Thị Hải Nguyệt, đề tài cấp Bộ năm 2007, tập trung nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài trong việc thực hiện BHXH tự nguyện; Đề tài “Khảo sát về triển vọng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cho khu vực phi chính thức ở Việt Nam: Kiến nghị chính sách”, đề tài cấp Bộ năm 2007 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Ngân hàng thế giới, đề tài tập trung nghiên cứu và đưa ra cơ sở để triển khai Luật BHXH về BHXH tự nguyện; Đề tài “Cơ sở khoa học của việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở nước ta giai đoạn 2007-2015”, đề tài cấp bộ của tác giả Mai Ngọc Cường – Trường Đại học Kinh tế quốc dân, đề tài này nghiên cứu tổng thể hệ thống ASXH ở nước ta. Từ trước năm 2008 có đề cập đến một số cơ sở để xây dựng chính sách về BHXH tự nguyện. Nhìn chung, các nghiên cứu trên đã góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng và thực hiện BHXH tự nguyện ở nước ta những năm qua, nhưng vẫn mới là những nghiên cứu bước đầu, còn chưa đầy đủ, thiếu hệ thống, đặc biệt chưa cập nhật được những xu hướng phát triển mới của hệ thống BHXH tự nguyện, trong bối cảnh đất nước chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực và điểm cần nhấn mạnh đó là các nghiên cứu trên thực hiện trong điều kiện Luật BHXH, về BHXH tự nguyện chưa được thực thi. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu – Đánh giá thực trạng việc tham gia BHXH và khả năng tham gia BHXH tự nguyện của người lao động khu vực phi chính thức. – Đề xuất các giải pháp phát triển BHXH tự nguyện ở Việt Nam trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn – Làm rõ thêm cơ sở lý luận về BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức. – Đánh giá kết quả thực hiện và nêu những vấn đề đang đặt ra cho quá trình phát triển BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức ở nước ta. – Dự báo khả năng, định hướng phát triển và giải pháp thực hiện BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức ở nước ta đến 2015. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên các phương pháp sau: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp hệ thống, khái quát, đối chiếu và so sánh, thống kê để phân tích, đánh giá và làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu trên dựa trên các quan điểm, chính sách, định hướng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và ASXH ở nước ta hiện nay. 5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lao động khu vực phi chính thức và tình hình thực hiện BHXH tự nguyện đối với lao động khu vực phi chính thức ở Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu Khu vực phi chính thức và BHXH tự nguyện áp dụng đối với lao động khu vực phi chính thức ở Việt Nam giai đoạn 2007 đến 2015. 6. Đóng góp của luận văn – Hệ thống hóa và làm rõ thêm các vấn đề lý luận cơ bản về BHXH tự nguyện; xác định vai trò của BHXH tự nguyện đối với lao động khu vực phi chính thức. – Phân tích, đánh giá kết quả tổ chức thực hiện BHXH tự nguyện đối với lao động khu vực phi chính thức ở Việt Nam đến cuối năm 2009. – Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển BHXH tự nguyện đối với lao động khu vực phi chính thức ở Việt Nam đến năm 2015. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 11 tiết.
