Luận văn Ứng dụng mô hình Harry t Oshima để đẩy mạnh tăng trưởng nông nghiệp vùng đồng bằng sông cửu long
- Người chia sẻ :
- Số trang : 93 trang
- Lượt xem : 8
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ứng dụng mô hình Harry t Oshima để đẩy mạnh tăng trưởng nông nghiệp vùng đồng bằng sông cửu long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Đối với nhiều nước đang phát triển, nông nghiệp giữvai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn đầu, tốc độtăng trưởng của nông nghiệp ảnh hưởng quyết định đến tốc độtăng trưởng chung của nền kinh tế. Theo tính toán của các nhà Kinh tếhọc Mỹ, nếu ngành Nông nghiệp tăng trưởng 1% sẽthúc đẩy các ngành dịch vụtăng 3%, do thịtrường cung cấp nguyên liệu đầu vào ổn định và thị trường tiêu thụcác sản phẩm công nghiệp, dịch vụ được mởrộng. Việt Nam sau năm 1975, đất nước thống nhất, chúng ta muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn. Nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủquan, chúng ta đã xác định sai lầm bước đi, không tập trung phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹmà thiên vềxây dựng công nghiệp nặng, làm cho kinh tếcủa đất nước lâm vào tình trạng khó khăn: khoảng 1,8 triệu ha đất canh tác bịbỏhoang; 70% đầu kéo bịxếp xó; quy mô hợp tác xã quá lớn, vượt khảnăng quản lý của ban chủ nhiệm; phân phối trong hợp tác xã theo chủnghĩa bình quân khiến xã viên không hăng hái sản xuất; chỉtiêu lương thực đềra trong năm 1980 là 21 triệu tấn thì thực tếchỉ đạt 14.406.400 tấn; năm 1976 lạm phát 128% thì năm 1981 là 313% [28, tr.65].Trước tình hình đó, Đảng và nhân dân ta thấy không còn sựlựa chọn nào khác là phải đổi mới, đổi mới toàn diện đểphát triển kinh tế- xã hội. Mục tiêu xuyên suốt của quá trình đổi mới là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập – tự chủ, thích ứng với hội nhập kinh tếthếgiới. Một trong những mục tiêu chủyếu của sự phát triển là xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, giảm bớt khoảng cách chênh lệch vềthu nhập của các hộgia đình giữa các vùng lãnh thổvà giữa nông thôn với thành thị đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Chính phủcũng quan tâm việc duy trì và phát triển một nền kinh tếbền vững, nhằm tránh xu hướng phát triển không cân đối có thểdẫn đến tình trạng hình thành những đô thịlớn cùng với 8 những khó khăn vềxã hội và môi trường mà các nước đang phát triển khác đã từng vấp phải Theo tiến trình đó, phát triển nông nghiệp – nông thôn được nhìn nhận là điểm căn bản trong chiến lược phát triển toàn diện của Việt Nam. Với tưduy và đường lối phát triển kinh tếnêu trên, chúng ta đã từng bước làm cho nền kinh tếsống động, sức sản xuất phát triển khá nhanh, cơsởvật chất được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Góp phần cho sựtăng trưởng đó phải kể đến vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), đây là vùng sản xuất nông sản hàng hoá lớn trong những năm đổi mới. Giai đoạn 1996 – 2001, ĐBSCL đã đóng góp 80% sản lượng lúa hàng hóa, 90% sản lượng gạo xuất khẩu, 70% sản lượng thủy sản xuất khẩu của cảnước, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, nâng cao vị thếcủa nông sản, thủy sản Việt Nam trên trường thếgiới. Không chỉtăng sốlượng, chất lượng nông sản, thuỷsản, mà hàng hoá vùng này cũng ngày càng nâng cao, đáp ứng được yêu cầu của thịtrường trong nước và quốc tế, cơcấu sản xuất đã chuyển từ trồng lúa là chủyếu sang trồng lúa kết hợp với nuôi trồng thuỷsản. Do đó, ĐBSCL còn là vùng cung cấp một khối lượng lớn cho công nghiệp chếbiến từcác nông, thuỷsản. Tuy nhiên cho đến nay, nông nghiệp vùng ĐBSCL vẫn đứng trước những thử thách lớn trong tiến trình chuyển đổi và hội nhập kinh tếkhu vực và thếgiới: Các phương thức canh tác tiên tiến áp dụng còn chậm trên diện rộng, giống cây trồng, vật nuôi tốt còn thiếu, chưa đáp ứng đủ, kịp thời cho sản xuất; Năng suất nhiều cây trồng, vật nuôi và chất lượng sản phẩm còn thấp 1 , phụthuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu; Chuyển đổi cơcấu sản xuất nông nghiệp và nông thôn còn chậm, nhiều nơi còn mang tính tựphát, chưa bền vững; Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn chưa được triển khai một cách bài bản; Cơsởvật chất kỹthuật của nông nghiệp (đường giao thông, điện, thủy lợi tưới tiêu ) còn thấp kém đã làm hạn chếviệc tiếp cận thịtrường, cũng nhưhỗtrợgia tăng năng suất ruộng đất, năng suất lao động. Hệ 1 Năng suất lúa của Việt Nam đạt khoảng 45- 46 tạ/ha, trong khi Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đạt 62 tạ/ha. Năng suất ngô của Việt Nam đạt 31- 32 tạ/ha, trong khi của Mỹ, Australia, Pháp đạt 80 tạ/ha 9 quảlà, thu nhập và đời sống của nông dân còn thấp, trên 90% người nghèo sống ở nông thôn, một bộphận khá lớn đồng bào dân tộc vẫn sống trong đói nghèo. Làm thế nào đểnông dân ĐBSCL bắt kịp với nhịp sống của cộng đồng thếgiới? Làm thếnào để nông nghiệp vùng ĐBSCL là tiền đềvững chắc hơn trên con đường tăng trưởng kinh tế? Đó đang là nỗi trăn trởcủa các nhà lãnh đạo cũng nhưcác nhà nghiên cứu chính sách phát triển kinh tếcủa Việt Nam. Nông nghiệp luôn làm các nhà khoa học kinh tếquan tâm, đặc biệt là nông nghiệp trong các nước đang phát triển. Do đó đã có nhiều mô hình, lý thuyết nghiên cứu vềvị trí, vai trò, những nhân tố ảnh hưởng đến nông nghiệp như: mô hình hai khu vực của Arthus Lewis, của trường phái Tân cổ điển; mô hình tăng trưởng kinh tếcủa Harry Tatsumi Oshima. Đồng thời cũng có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước vềnông nghiệp, nông thôn ĐBSCL qua từng giai đoạn khác nhau. Ở đây, với mong muốn góp phần trong việc tìm kiếm các nguyên nhân tác động đến sựphát triển của nông nghiệp ĐBSCL, qua đó có thể đưa ra một sốgợi ý vềgiải pháp, tác giả đã chọn đềtài: “ỨNG DỤNG MÔ HÌNH HARRY T. OSHIMA ĐỂ ĐẨY MẠNH TĂNG TRƯỞNG NÔNG NGHIỆP VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG”.
