Luận án Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của một số giống đậu tương nhập nội và biện pháp kỹ thuật cho giống có triển vọng tại Thái Nguyên

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 167 trang
  • Lượt xem : 8
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của một số giống đậu tương nhập nội và biện pháp kỹ thuật cho giống có triển vọng tại Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Cây đậu tương (Glycine max (L) Merr) là cây công nghiệp ngắn ngày có tác dụng rất nhiều mặt và là cây có giá trị kinh tế cao. Sản phẩm của nó cung cấp thực phẩm cho con người, thức ăn cho gia súc, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Ngoài ra đậu tương là cây trồng ngắn ngày rất thích hợp trong luân canh, xen canh, gối vụ với nhiều loại cây trồng khác và là cây cải tạo đất rất tốt (Ngô Thế Dân và các cs, 1999) [10]. Thành phần dinh dưỡng trong hạt đậu tương rất cao, với hàm lượng protein từ 38 – 40%, lipit từ 15 – 20%, hyđrat các bon từ 15 – 16% và nhiều loại sinh tố và muối khoáng quan trọng cho sự sống (Phạm Văn Thiều, 2006 [44]). Hạt đậu tương là loại sản phẩm duy nhất mà giá trị của nó được đánh giá đồng thời cả protein và lipit. Protein của hạt đậu tương không những có hàm lượng cao mà còn có đầy đủ và cân đối các axit amin cần thiết. Lipit của đậu tương chứa một tỷ lệ cao các axit béo chưa no ( khoảng 60 -70%), có hệ số đồng hoá cao, mùi vị thơm như axit linoleic chiếm 52- 65%, axit oleic chiếm 25 – 36%, axit lonolenoic chiếm 2 – 3%. Ngoài ra, trong hạt đậu tương còn có nhiều loại vitamin như vitamin PP, A, C, E, D, K, đặc biệt là vitamin B1 và B2 (Phạm Văn Thiều, 2006)[44]. Đậu tương được gieo trồng phổ biến trên cả 7 vùng sinh thái trong cả nước. Trong đó, vùng Trung du miền núi phía Bắc là nơi có diện tích gieo trồng đậu tương nhiều nhất (69425 ha) chiếm 37,10% tổng diện tích đậu tương của cả nước và cũng là nơi có năng suất thấp nhất chỉ đạt 10,30 tạ/ha (Cục Trồng Trọt, 2006) [9]. Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến năng suất đậu tương ở trung du miền núi thấp như chưa có bộ giống tốt phù hợp, mức đầu tư thấp, các biện pháp kỹ thuật canh tác chưa hợp lý. Trong các yếu tố hạn chế trên thì giống và biện pháp kỹ thuật là yếu tố cản trở chính đến năng suất đậu tương. Kết quả điều tra giống năm 2003 – 2004 của Cục Trồng Trọt (2006) [9] cho thấy: Trung du miền núi phía Bắc là một trong ba vùng trồng nhiều giống đậu tương địa phương và ít giống mới nhất (37,5 – 38,4% diện tích trồng giống địa phương).