Tóm tắt luận văn Nghiên cứu mối quan hệ giữa định hướng thị trường và kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh cà phê trên địa bàn tỉnh Gia Lai

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 26 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận văn Nghiên cứu mối quan hệ giữa định hướng thị trường và kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh cà phê trên địa bàn tỉnh Gia Lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Cây cà phê được người dân ở Ethiopia phát hiện ra đầu tiên. Vào thế kỷ thứ 14, những người buôn nô lệ đã mang cà phê từ Ethiopia sang vùng Ả Rập, sau đó nó được trồng ở các nước thuộcChâu Mỹ, Châu Á. Hiện nay, cây cà phê được trồng tại hơn 50 quốc gia trên thế giới (Wikipedia, 2007). Cây cà phê được phân thành ba dòng chính là cà phê chè (Arabica), cà phê vối (Robusta) và cà phê mít (Excelsa). Cà phê Robusta được đánh giá thấp hơn so với cà phê Arabica do có chất lượng thấp hơn và giá cả theo đó cũng rẻ hơn. Các nước trồng cà phê chè chủ yếu là Brazil, Ethiopia, Colombia, Kenya, Mexico và Ấn Độ. Các nước trồng cà phê vối chủ yếu là Việt Nam, Bờ Biển Ngà, Indonesia và Uganda, trong đó Việt Nam là quốc gia đứng đầu vềsản xuất, xuất khẩu mặt hàng này. Trải qua hơn 100 năm kể từ năm 1850 khi người Pháp đưa cây cà phê vào Việt Nam, đến nay, diện tích cà phê cả nước trên 500 ngàn ha và sản lượng lên đến hơn 1 triệu tấn (ICO, Cục thống kê của các Tỉnh), năng suất đạt 2 tấn/ha. Cà phê Việt Nam đã xuất khẩu sang 86 nước và vùng lãnh thổ (Báo điện tử Vinanet, 2011) với kim ngạch xuất khẩu trong năm 2011 đạt trên 2,7 tỉ USD (Tổng cục Hải quan, 2012). Việt Nam đã vươn lên đứng thứ hai. Riêng cà phê Robusta, Việt Nam đứng trên cả Brazil và trở thành nhà xuất khẩu mặt hàng này lớn nhất thếgiới. Chỉ trong vòng 9 năm, từ 1994 đến 2002, cây cà phê đã tạo công ăn việc làm trực tiếp cho khoảng 800 nghìn người và gián tiếp cho khoảng một triệu người (VOCOFA, 2010). Mặc dù khối lượng xuất khẩu cà phê vối của Việt Nam đã đạt đến mức cao nhưng lại vấp phải những vấn đề nang giải liên quan đến chất lượng, tiêu chuẩn. Theo VICOFA (2010), cà phê bị loại thải có nguồn gốc từ Việt Nam chiếm 80% trong tổng số cà phê xuất khẩu của thếgiới. Rất nhiều lô hàng cà phê xuất khẩu từ Việt Nam đã bị từ chối nhập tại cảng của các nước do vấn đề về chất lượng hoặc nếu khách hàng đồng ý nhập thì chúng ta phải chịu giá thấp. Nguyên nhân của tình trạng này là do ở hầu hết cáctỉnh Tây Nguyên, cà phê ít được chếbiến ướt, chỉ tập trung theo phương pháp cổ truyền như phơi khô, xát vỏ nên màu sắc cà phê nhân không đẹp, tỷ lệ hạt bị dập,vỡ cao, đó là chưa kể trong vụ thu hoạch do gặp mưa nhiều ngày cà phê được hái về đổ thành đốngkhông có sân phơi làm cà phê bị ẩm mốc, hạt nhân cà phê bị đen dẫn đến chất lượng kém. Hơn nữa, việc sử dụng các yếu tố đầu vào và phối hợp sử dụng các yếu tố này của các hộ gia đình thiếu khoa học làm kích cỡ hạt cà phê không đồng đều, chất lượng thấp. Vì vậy, vấn đềđặt ra hiện nay là phải có thêm những nghiên cứu thực tiễn vềsử dụng các yếu tố đầu vào của cây cà phê để giúp các hộ dân vừa nâng cao năng suất, sản lượng cà phê vừa nâng cao được chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh doanh ngành hàng này, từ đó sẽ nâng cao tính cạnh tranh, kim ngạch xuất khẩu của cà phê Việt Nam trên thị trường thếgiới. Cây cà phê trồng ở nước ta bao gồm cà phê vối chiếm 90% diện tích, cà phê chè 9% và cà phê mít 1%.