Luận án Tăng cường khả năng tự tạo việc làm cho thanh niên Việt Nam

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 231 trang
  • Lượt xem : 9
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tăng cường khả năng tự tạo việc làm cho thanh niên Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Tự tạo việc làm, sau thời kỳ “ðổi mới” năm 1986 ñã bắt ñầu phát triển ở Việt Nam. Xu hướng khuyến khích tự tạo việc làm vẫn sẽ còn tiếp tục trong một vài thập kỷ tới khi vai trò của nhà nước ñang chuyển từ tạo việc làm trực tiếp sang gián tiếp thông qua các chính sách, nguồn lực hỗ trợ, ñặc biệt thông qua các Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Các chương trình này nhằm phát triển thị trường lao ñộng trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung cầu lao ñộng, phát huy tính tích cực của người lao ñộng trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm, khuyến khích sự năng ñộng và chủ ñộng tự tạo việc làm cho bản thân và người khác, không thụ ñộng trông chờ vào nhà nước. Lúc này, cạnh tranh việc làm ngày càng trở nên gay gắt ở Việt Nam, ñặc biệt là ñối với thanh niên, là những người mới tham gia thị trường lao ñộng với kinh nghiệm và vị thế cạnh tranh yếu, tự tạo việc làm cóthể ñược coi là một giải pháp thiết thực. Tuy nhiên, tự tạo việc làm không nên chỉ ñượccoi là giải pháp tạm thời ñối với người lao ñộng khi thiếu việc làm, góp phần làm giảm bớt tình trạng thất nghiệp mà còn là xu hướng lựa chọn ngày càng gia tăng trong xã hội hiện ñại và nên ñược khuyến khích, ñặc biệt là ñối với lao ñộng trẻ nhằm phát huy tính ñộc lập sáng tạo, năng ñộng của họ và tạo ñược ñộng lực phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế nước nhà. Có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước ñã ñề cập tới vấn ñề lựa chọn tự tạo việc làm của người lao ñộng. Các nghiên cứu này, vềcơ bản theo hai hướng tiếp cận khác nhau. Với cách tiếp cận vĩ mô, mức ñộ tự tạo việc làm củangười lao ñộng chịu ảnh hưởng của sự thay ñổi trong tổng cầu của nền kinh tế (suy thoái kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tốc ñộ tăng việc làm.) và những biếnñộng trên thị trường lao ñộng (mức lương, tốc ñộ tăng lực lượng lao ñộng, chất lượng của lực lượng lao ñộng, việc làm .). ðại diện cho cách tiếp cận nghiên cứu này có János Kollo, Mária Vincze (1999). Trong nghiên cứu này, sự gia tăng ñáng kể số người tự tạoviệc làm trong những giai ñoạn 2 khủng hoảng hoặc chuyển ñổi cơ cấu kinh tế ñược giải thích là phản ứng tạm thời của thị trường lao ñộng ñối phó với tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của người lao ñộng; có nghĩa là “lực ñẩy” ñóng vai trò quan trọngñối với lựa chọn tự tạo việc làm của người lao ñộng. ðây cũng là một trong hai nhóm yếu tố ñược ñề cập trong nghiên cứu của Lin, Yates and Picot (1999). Ngược lại với nhóm yếu tố thứ nhất, nhóm thứ hai luôn cho rằng những cá nhân người lao ñộng với những phẩm chất ñặc biệt sẽ có ñộng lực khởi sự doanh nghiệp mà họ thường xuất phát từ tự tạo việc làm. Trong trường hợp này, tự tạo việc làm ñược cho rằng có liên quan tới các yếu tố thúc ñẩy trong môi trường kinh tế vĩ mô như quá trình công nghiệp hóa-ñô thị hóa, sự phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ trợ giúp, chính sách khuyến khích phát triển các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vi mô., những yếu tố tạo nên “sức hút” tự tạo việc làm ñối với người lao ñộng. Như vậy, khi lý thuyết “lực hút” phát huy tác dụng thì tự tạo việc làm sẽ không gia tăng với tình trạng thất nghiệp, nhưng nếu lý thuyết “lực ñẩy” chiếm ưu thế thì tự tạo việc làm sẽ có mối tương quan tỷ lệ thuận với mức thất nghiệp. Bên cạnh cách tiếp cận vĩ mô, cách tiếp cận vi mô giải thích các ñặc tính cá nhân và gia ñình sẽ khuyến khích hay không khuyến khích người lao ñộng tự tạo việc làm, ñiển hình với Ivan Light (1979) và “lý thuyết về sự bất lợi”; Messenger and Stettner (2000) và mô hình phân tích hai nhóm: “yếutố ñẩy” và “yếu tố kéo” ñối với tự tạo việc làm; James (1998) và mô hình các “chi phí cơ hội thấp” và “chi phí cơ hội cao” của tự tạo việc làm ñối với người lao ñộng. Mỗi cách tiếp cận nghiên cứu về tự tạo việc làm ñềuchỉ có thể giải thích một số các khía cạnh liên quan tới tự tạo việc làm mà chưathể ñem lại bức tranh tổng quát về vấn ñề này. Ngoài ra, thực chất các nghiên cứu trênñều ñề cập tới khái niệm về tự làm chủ (self employed) chứ chưa nghiên cứu nào ñề cập tới tự tạo việc làm, làm rõ thế nào là “tự tạo việc làm”, và tự tạo việc làm ở thanh niên có ñặc ñiểm gì khác biệt. Luận án sẽ bổ sung thêm các nội dung này.