Luận án Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành điện tử gia dụng ởViệt Nam

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 183 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành điện tử gia dụng ởViệt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Ngày nay các nhà sản xuất lớn trên thế giới, các tập đoàn đa quốc gia (TĐĐQG) chỉ nắm giữ các hoạt động như nghiên cứu và triển khai, xúc tiến thương mại, phát triển sản phẩm, còn các công đoạn sản xuất, những phần công việc trước đây vẫn nằm trong dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh, hầu hết được giao cho các doanh nghiệp bên ngoài. Nhưvậy, các sản phẩm công nghiệp không còn được sản xuất tại một không gian, địa điểm, mà được phân chia thành nhiều công đoạn, ở các địa điểm, các quốc gia khác nhau. Thuật ngữ công nghiệp hỗ trợ (CNHT) là cách tiếp cận sản xuất công nghiệp trong bối cảnh mới này. Qua hai mươi năm đổi mới, công nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, chuyển sang cơchếthịtrường, bước đầu hội nhập vào nền kinh tếkhu vực và thếgiới. Tuy vậy, tỷlệgiá trịgia tăng trong giá trịsản xuất công nghiệp lại đang có dấu hiệu đi xuống. Theo BộCông Thương (2008a), năm 1995 VA/GO toàn ngành công nghiệp là 42,5%; đến năm 2000, tỷ lệ này chỉ còn 38,45%; năm 2005 còn 29,63%; năm 2007 đạt 26,3%; dựbáo năm 2010 chỉcòn 23%. Trong đó, thấp nhất là ngành công nghiệp điện tửvà công nghệthông tin với 13,81% [8, tr.17]. Một trong những lý do quan trọng của tình trạng này, là sự yếu kém của các ngành CNHT. Sau vài năm xuất hiện ởViệt Nam, thuật ngữ“công nghiệp hỗtrợ” (cụm từ “công nghiệp phụtrợ” dịch từtiếng Anh “Supporting Industry” đã được sửdụng rộng rãi ởViệt Nam từnăm 2003 cho đến năm 2007, khi BộCông nghiệp (cũ) chính thức sửdụng cụm từ“công nghiệp hỗtrợ”. Trong tài liệu này, hai cụm từ trên có nghĩa tương đương) đã trởthành vấn đềnóng bỏng, không chỉcủa riêng BộCông Thương và các nhà nghiên cứu, mà đã được các cơquan chính phủ, các tổchức hỗtrợdoanh nghiệp, doanh nghiệp và cảcộng đồng xã hội quan tâm. Đã có nhiều chuyển biến đáng kểtrong nhận thức cũng nhưtrong hoạt động của các 2 doanh nghiệp sản xuất Việt Nam. Khảnăng nội địa hóa trong một sốngành đã gia tăng, nhưcông nghiệp xe máy đã đạt đến 95%. Tuy nhiên trong đa sốcác ngành khác, như công nghiệp điện tử, tỷ lệ cung ứng trong nước chỉ khoảng 15%, tập trung vào các chi tiết có kích thước cồng kềnh với giá trịthấp và hầu hết do các doanh nghiệp sản xuất linh phụkiện có vốn đầu tưnước ngoài cung cấp [8]. Mặc dù đã có rất nhiều nỗlực từphía doanh nghiệp, sựgiúp đỡcủa các cơquan hỗtrợ, nhưng trình độphát triển CNHT của Việt Nam còn thấp xa so với kỳvọng và so với yêu cầu. Việc nghiên cứu tìm ra nguyên nhân đích thực của tình trạng này, từ đó, đề xuất định hướng và giải pháp phát triển hợp lý CNHT vừa là nhiệm vụcấp thiết, vừa là nhiệm vụcơbản đểcông nghiệp Việt Nam phát triển. Trong điều kiện toàn cầu hoá và khoa học công nghệphát triển mạnh mẽ, xuất hiện hàng loạt các yếu tố đòi hỏi phải tính đến, đểbảo đảm “tính hợp lý” trong phát triển CNHT. Trong đó có yếu tốvềtưduy kinh tếtoàn cầu, việc đặt nền kinh tếmỗi quốc gia trong mạng lưới sản xuất và phân phối toàn cầu, yếu tố vềxửlý mối quan hệgiữa nhà nước, doanh nghiệp và thịtrường. Vềlý thuyết, cho đến nay, đó là những vấn đềvẫn chưa được lý giải rõ ràng; vềthực tế, vẫn còn những quan điểm khác nhau vềphát triển CNHT ởnhững nước đang trong quá trình công nghiệp hoá nhưViệt Nam. Chính sách phát triển CNHT quốc gia, vì vậy, cần phải phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập có hiệu quảvào đời sống kinh tếquốc tế. Trước đòi hỏi đối với tiến trình phát triển và hội nhập đó, phát triển CNHT, nhất là trong các ngành công nghiệp thâm dụng công nghệ, đang là thách thức rất lớn đặt ra cho Việt Nam. Nhằm cụthểvà thực tiễn hoá các nội dung nghiên cứu, đề tài được giới hạn vào CNHT cho ngành điện tử gia dụng (ĐTGD), nhưlà một trường hợp nghiên cứu điển hình. ĐTGD là ngành có tính đại diện cao cho một quốc gia đang phát triển có dân số đông, trong bối cảnh tiến bộkhoa học công nghệvà toàn cầu hoá. Dù là lĩnh vực đang phát triển khá mạnh 3 mẽ ởViệt Nam, nhưng mới đây, việc một sốtập đoàn ĐTGD đóng cửa nhà máy sản xuất là tín hiệu báo động, khẩn cấp đòi hỏi các chính sách phát triển CNHT hiệu quả, thiết thực. Bởi lẽ, cùng với việc nâng cao năng lực sản xuất, nền CNHT phát triển sẽlà y ếu tốmạnh nhất đểthu hút và giữchân các nhà đầu tư nước ngoài một cách bền vững. Nhưvậy, phát triển CNHT không chỉnhằm mục tiêu gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, mà còn là công cụquan trọng đểViệt Nam hội nhập kinh tếquốc tếnhanh chóng. Trước tình hình như vậy, đềtài “Phát triển công nghiệp hỗ trợtrong ngành điện tửgia dụng ởViệt Nam” đã được lựa chọn nghiên cứu.