Luận án Quản lý nhà nước về đa dạng hóa hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn thành phố hố chí minh đến năm 2020

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 222 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quản lý nhà nước về đa dạng hóa hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn thành phố hố chí minh đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Hoạt động tín dụng (HĐTD) ngân hàng góp phần quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo qua cung cấp vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng kinh tế, góp phần tạo việc làm, thực hiện các chính sách an sinh xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho đầu tư phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo và cải thiện an sinh xã hội. Trong giai đoạn 2006-2012, tín dụng cho nền kinh tế tăng bình quân 28,09%/năm, cao hơn mức tăng bình quân 26,1%/năm của giai đoạn 2001-2005 [62, tr.1] và tỷ lệ tín dụng trên tổng sản phẩm trong nước (GDP) từ hơn 68% năm 2006 lên hơn 104% vào năm 2012 (xem Bảng 2.4). Tín dụng ngân hàng cấp cho hộ nghèo trong giai đoạn 2003-2012 đã gia tăng cao, tổng dư nợ tín dụng ngân hàng đạt 113.921 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 32,8%. Đến cuối năm 2012 có gần 7,1 triệu hộ nghèo và các đối tượng chính sách còn dư nợ, với dư nợ bình quân 16 triệu đồng/hộ. Tín dụng ngân hàng đã góp phần tích cực trong việc thực hiện mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo trong thời kỳ 2001-2005 giảm từ 17% xuống 7%; trong thời kỳ 2005-2010 giảm từ 22% xuống 9,45% và trong thời kỳ 2011-2012 giảm từ 14,2% xuống còn 10% [92, tr.1-2]. Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), theo nhận định của Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố, với “Dư nợ tín dụng tăng trưởng bình quân 38,9%/năm, huy động vốn tăng 38,8%/năm (giai đoạn 2005-2010), đóng góp tích cực vào quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, thúc đẩy kinh tế thành phố tăng trưởng liên tục trong suốt 38 năm qua”[60, tr.1] và tỷ lệ tín dụng trên GDP từ hơn 115% năm 2006 lên hơn 138% vào năm 2012 (xem Bảng 2.6). Đồng thời, để thực hiện hiệu quả chương trình giảm nghèo, tăng hộ khá, trên địa bàn TP.HCM đã mở rộng cho vay đến cuối năm 2012 hơn 2.771 tỷ đồng và đến thời điểm giữa năm 2013 là 2.129 tỷ đồng, nhằm hỗ trợ các hộ nghèo, hộ cận nghèo tổ chức sản xuất, tạo tích lũy, tăng thu nhập, giảm nghèo và ổn định cuộc sống. Qua đó, góp phần vào công tác giảm nghèo, thực hiện dứt điểm, không còn hộ nghèo theo chuẩn nghèo quốc gia tính đến cuối năm 2012 [47, tr.1-3]. Với vai trò quan trọng của tín dụng ngân hàng, nên sự an toàn, lành mạnh và hiệu quả của hệ thống các TCTD là nhân tố quan trọng đối với sự ổn định hệ thống tài chính quốc gia và kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, do tác động của khủng hoảng tài chính trên thế giới trong các năm gần đây, bắt đầu từ năm 2007-2008 khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ và lan rộng khắp thế giới. Một trong những nguyên nhân của khủng hoảng là do sụp đổ của thị trường tín dụng qua hoạt động cho vay mua nhà dưới chuẩn khi giá nhà tại Hoa Kỳ suy giảm và chính sách tiền tệ nới lỏng của Hoa Kỳ đã gây ra hiệu ứng lan tỏa nhanh trên thị trường tài chính sang một loạt nước châu Âu như Đức, Pháp, Bỉ, Hà lan, Ý, Thụy sĩ, Ai len. Những tác động làm lan tỏa nhanh khủng hoảng tài chính thế giới xuất phát từ thị trường tài chính phát triển nhanh với các mô hình, hoạt động kinh doanh mới, các sản phẩm tài chính đa dạng, phức tạp kéo theo rủi ro lớn hơn; khuôn khổ quản lý và giám sát ngân hàng cũng như nhận thức và chuẩn mực an toàn HĐTD không được nâng cấp tương ứng để duy trì an toàn và ổn định tài chính; các ngân hàng mở rộng cho vay, không quan tâm chất lượng người vay, chứng khoán hóa ngay các khoản vay đó và chuyển giao rủi ro tín dụng cho nhà đầu tư; quản trị doanh nghiệp và quản trị rủi ro yếu kém tại các định chế tài chính và nhiều nơi chấp nhận rủi ro quá mức, duy trì mức vốn quá thấp, phụ thuộc thái quá vào các nguồn vốn ngắn hạn, chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá; đồng thời, sự thiếu cẩn trọng trong chính sách kinh tế vĩ mô, và đi liền với đó là thiếu sự quan tâm đến giám sát cẩn trọng vĩ mô là nguyên nhân xuất hiện tại hầu hết các cuộc củng hoảng. Những mất cân đối lớn cả về kinh tế vĩ mô và trên thị trường tài chính đã không được các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý giám sát quan tâm đầy đủ. Một phần là do chưa có cơ quan nào hoạt động thật hữu hiệu để theo dõi, xác định, và xử lý các rủi ro chéo, rủi ro hệ thống. Một phần cũng vì các cơ quan quản lý, giám sát đã không có được sức mạnh và sự độc lập cần thiết để bảo về ổn định tài chính [84, tr.1-3].