Luận án Tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc hành lang kinh tế đông tây (1998 – 2010)
- Người chia sẻ :
- Số trang : 195 trang
- Lượt xem : 7
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc hành lang kinh tế đông tây (1998 – 2010), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Trong thập niên đầu của thếkỷXXI toàn cầu hoá, khu vực hóa tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cảcác nước. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thếlớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Trong xu thếphát triển chung của nhân loại, song song với quá toàn cầu hoá, cạnh tranh mang tính quốc tếvẫn tiếp tục gia tăng không kém phần gay gắt. Đáp lại thực tếmang nhiều thách thức đó, nhiều nước đang phát triển đã nhận thức rằng phải hợp tác với các nước láng giềng của mình để đảm bảo cho các nguồn lực: tựnhiên, con người, cũng nhưtiền vốn được sửdụng một cách hiệu quả. Mặt khác, hoạt động mậu dịch, đầu tưcùng nhiều loại hình kinh doanh có xu hướng vượt ra ngoài biên giới quốc gia ngày càng mạnh, đòi hỏi các chính phủphải tiến hành hợp tác khu vực và hợp tác tiểu vùng đểtạo ra môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh. Trong hoàn cảnh đó, Ngân hàng phát triển Châu Á đã đềxuất sáng kiến Hợp tác Tiểu vùng sông Mekong mởrộng (GMS) vào năm 1992. Các nước thành viên của Hợp tác GMS bao gồm 5 nước (Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam), và hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây, Trung quốc. Hợp tác GMS bao gồm 10 lĩnh vực là: (1) Giao thông tận tải; (2) Năng lượng; (3) Môi trường; (4) Du lịch; (5) Bưu chính Viễn thông; (6) Thương mại; (7) Đầu tư; (8) Phát triển Nguồn nhân lực; (9) Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và (10) Quản lý nguồn nước [73, tr1]. Tại Hội nghịlần thứ8 các Bộtrưởng GMS, tổchức tại Manila (Philippines) tháng 10/1998, có 5 dựán hành lang được đưa ra thảo luận, trong đó hội nghị đã thống nhất ưu tiên thực hiện Hành lang kinh tế Đông tây (EWEC). Hành lang kinh tế Đông Tây là chương trình hợp tác phát triển tổng thểnhằm mục tiêu phát triển liên vùng nghèo bao gồm lãnh thổlớn kéo dài từmiền Trung Việt Nam lên Trung Hạ Lào, Đông Bắc Thái Lan và đến tận Myanmar. Sựra đời của Hành lang kinh tế Đông Tây sẽ đem lại lợi ích thiết thực và lâu dài cho các quốc gia thành viên. Đây là cơhội cho các quốc gia tiếp cận tốt hơn các nguồn tài nguyên khoáng sản, hải sản và năng lượng phục vụcho các ngành sản xuất 2 và chếbiến; tạo điều kiện phát triển cho các thành phố, thịtrấn nhỏdọc hành lang đồng thời thúc đẩy thương mại xuyên biên giới; thu hút đầu tưtừcác nguồn địa phương, khu vực và thếgiới; phát triển các hoạt động kinh tếmới thông qua việc sử dụng hiệu quảkhông gian kinh tếvà hình thành khu vực kinh tếxuyên quốc gia; mở cửa cho hàng hoá của Myanmar, Thái Lan, Lào, Việt Nam và Trung Quốc thâm nhập vào các thịtrường đầy tiềm năng của Nam Á, Đông Á, châu Âuvà châu Mỹ. Ngoài ra, hành lang còn là môi trường đểthửnghiệm các chính sách kinh tếmới, đặc biệt là ởMyanmar, Việt Nam và Lào. Hành lang kinh tế Đông Tây cũng đã mở ra những cơhội hợp tác trên nhiều lĩnh vực cho các địa phương thành viên. Sựra đời của Hành lang kinh tế Đông Tây bên cạnh xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá và liên kết tiểu vùng thì nguyên nhân cơbản nhất đó là xuất phát từnhu cầu phát triển của mỗi nước thành viên. CảMyanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam đều ủng hộvà hưởng ứng sáng kiến hợp tác EWEC bởi vì tham gia hợp tác và phát triển trong Hành lang kinh tế Đông Tây sẽgiúp cho mỗi nước phát huy được lợi thế của mình đồng thời tranh thủcác điều kiện của các nước láng giềng trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước. EWEC còn có ý nghĩa to lớn vềnhiều mặt kinh tế- xã hội, hợp tác phát triển và xoá đói giảm nghèo cho các địa phương và các nước thành viên. Trong sốcác thành viên của ASEAN, Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam là những nước láng giềng gần gũi, có quan hệgắn bó qua các thời kỳlịch sử. Trong xu thếhội nhập kinh tếquốc tếvà tăng cường hợp tác Tiểu vùng của Việt Nam hiện nay, việc tìm hiểu các mối quan hệhợp tác kinh tếgiữa Việt Nam với các nước láng giềng không chỉcó ý nghĩa vềmặt khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn và có tính thời sựcấp thiết.
