Tóm tắt luận án Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 14 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận án Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Để phát triển kinh tế, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều lựa chọn mô hình kinh tế thị trường (KTTT) nhằm sử dụng sức mạnh của quy luật cạnh tranh làm động lực phát triển. Cơ sở để quy luật cạnh tranh được vận hành là tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng. Chỉ trongđiều kiện cạnh tranh bình đẳng doanh nghiệp mới có cơ hội kinh doanh bằng chính thực lực của mình. Trong môi trường kinh doanh bình đẳng, doanh nghiệp có năng lực được thừa nhận, đào thải những doanh nghiệp yếu kém, lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy phát triển. Vì thế, đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng vừa là nguyên tắc, vừa là giá trị phổ biến củaKTTT. Vấn đề vướng mắc hiện nay cả về lý luận và thực tiễn trong phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là, làm thế nào để kinh tếnhà nước nắm vai trò chủ đạo nhưng vẫn đảm bảo được sự bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Đồng thời, tính không hiệu quả của phần lớn DNNN cũng chưa giải thích được tác dụng thực tế của chính sách ưu tiên đối với DNNN. Bên cạnh đó, với việc tham gia ngày càng sâu, rộng vào thị trường quốc tế, Việt Nam cần tuân thủ quy luật thị trường và thực hiện những cam kết đã ký. Về chủ trương, vấn đề bảo đảm quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp (BĐGCDN) thuộc các thành phần kinh tế đã được Đảng và nhà nước quan tâm từ ngay sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), được triển khai trong Hiến pháp 1992 Luật Cạnh tranh 2004, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Đầu tư 2005 và trong các đạo luật khác. Tuy nhiên, đi ngược với kỳ vọng của nhà nước, thực tế bất BĐGCDN không giảm mà đang có xu hướng gia tăng. Bất BĐGCDN diễn ra mọi lúc, mọi nơi, trong mọi quan hệ,ngay từ khi gia nhập thị trường, trong quá trình kinh doanh và trong giải thể, phá sản doanh nghiệp. Việc thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi nhiều thủ tục. Doanh nghiệp tư nhân tiếp cận dịch vụ côngvà các nguồn lực khó khăn hơn DNNN. Một số tập đoàn kinh tế nhà nước được ưu tiên, bảo lãnh, khoanh nợ, giãn nợ. Có những DNNN thua lỗ được sáp nhập vào tổng công ty hoặc giao trách nhiệm cứu vớt cho các doanh nghiệp khác mà không bị phá sản. Đồng thời, vẫn tồn tại nhiều lĩnh vực DNNNđộc quyền. Điều đó tạo sự cản trở thu hút đầu tư và làm suy giảm tăng trưởng kinh tế. Trước những đòi hỏi từ nội tại nền kinh tế và yêu cầu của những cam kết quốc tế, việc nghiên cứu các quy định pháp luật, đánh giá quá trình thực thi nhằm xác định nguyên nhân và đưa ra giải pháp phù hợp, bảo đảm quyền BĐGCDN là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Vì lẽ đó, tác giả luận án đã chọn vấn đề “Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu