Nghiên cứu tuyển chọn giống đậu tương chịu hạn thích ứng rộng với các điều kiện sinh thái khó khăn do biến đổi khí hậu tại Tây Nguyên
- Người chia sẻ :
- Số trang : 67 trang
- Lượt xem : 8
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu tuyển chọn giống đậu tương chịu hạn thích ứng rộng với các điều kiện sinh thái khó khăn do biến đổi khí hậu tại Tây Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Trải dài trên 15 vĩ độ Bắc, Việt Nam có địa hình phức tạp và đa dạng khí hậu. Khí hậu Việt nam phân chia thành 2 mùa rõ rệt: mùa mưa khoảng 6 – 8 tháng từ tháng 5 – 6 đến tháng 9 – 11, mùa khô kéo dài 5 – 6 tháng tiếp theo. Việt Nam có khoảng 9,6 triệu ha đất canh tác, khoảng 2,5 triệu ha đất có tưới dành cho cây lương thực: lúa, ngô thì có tới 70% đất canh tác nhờ nước trời. Trong các thiên tai ở Việt Nam, khô hạn đã gây nhiều thiệt hại cho sản xuất, rất cần thiết phải nghiên cứu chọn tạo các giống cây trồng chịu hạn, trong đó có cây đậu tương. Việt Nam đang là nước phải nhập khẩu lớn về đậu tương, để giảm nhập khẩu và cạnh tranh được khi hội nhập quốc tế, bảo đảm công ăn việc làm cho nông dân, đậu tương Việt Nam phải giảm giá thành sản xuất, muốn vậy vấn đề chủ yếu là phải tăng năng suất lên 18 – 20 tạ/ha bằng các giống năng suất cao, chống chịu tốt (trong đó có tính chịu hạn). Trong điều kiện sản xuất nhờ nước trời, năng suất của các giống đậu tương ở vụ 3 chỉ phát huy được 1/2 tiềm năng, gặp thời tiết khô hạn không thuận lợi năng suất bị giảm tới 70 – 80%, gây thất thu rất lớn cho sản xuất và thu nhập của nông dân. Vấn đề đặt ra cho sản xuất đậu tương Việt Nam là phải có bộ giống đậu tương thích ứng rộng trong đó chỉ tiêu chịu hạn có vai trò đặc biệt quan trọng. Tây Nguyên là vùng lãnh thổ rộng lớn nằm trên độ cao 500 – 1000 m bao gồm 5 tỉnh Lâm Đồng, Đắk Lắk, Đắk Nông, Kon Tum, Gia Lai với diện tích là 5.612 ngàn ha (chiếm 16,54% diện tích cả nước), trong đó đất nông nghiệp chiếm 1615,8 ngàn ha. Tây Nguyên có nhiều lợi thế trồng cây đậu tương: lượng bức xạ lớn, nhiệt độ tương đối ôn hòa quanh năm từ 18 – 350C, chênh lệch nhiệt độ ngày và đêm lớn thuận lợi cho quang hô hấp để đạt năng suất, chất lượng cao. Tuy nhiên hiện nay sự phát triển đậu tương ở Tây Nguyên là chưa tương xứng với tiềm năng, năm 2008 diện tích đậu tương của Tây Nguyên là 25 ngàn ha, năng suất đã đạt 17,7 tạ/ha cao hơn bình quân cả nước. Đậu tương trồng tập trung chủ yếu ở 2 tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông, các tỉnh khác như Lâm Đồng (năm 1985 đã từng có 4,1 ngàn ha), các tỉnh Gia Lai, Kon Tum hiện tại cũng có sản xuất nhưng diện tích không đáng kể nguyên nhân chủ yếu do hiệu quả sản xuất chưa cao bằng các cây trồng khác như rau, hoa, ngô, sắn và cây công nghiệp dài ngày (cà phê, tiêu). Tây Nguyên có 2 hệ thống cây trồng ngắn ngày chính: ngô trên đất màu, nương rẫy và lúa trên đất ruộng, trong các năm gần đây tình trạng độc canh 1 loại cây trồng trên 1 chân đất liên tục trong 1 năm như 2 vụ ngô, 3 vụ lúa thường diễn ra phổ biến làm nghèo kiệt đất, dịch rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá diễn ra nghiêm trọng không chỉ ở Đồng bằng Sông Cửu long mà còn cả ở Tây Nguyên. Luân canh, tăng vụ giữa các cây lương thực với các cây đậu đỗ trong đó có đậu tương sẽ góp phần giảm thiểu sâu bệnh, cải tạo đất và khai thác có hiệu quả quỹ đất.Vì vậy, nghiên cứu chọn tạo các giống đậu tương mới có năng suất cao, chất lượng tốt, thời gian sinh trưởng phù hợp có khả năng chịu hạn, thích ứng rộng với điều kiện sinh thái khó khăn do biến đổi khí hậu thích hợp cho Tây Nguyên để góp phần nâng cao tính bền vững là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Từ những căn cứ thực tiễn sản xuất chúng tôi tiến hành đề tài: : “Nghiên cứu tuyển chọn giống đậu tương chịu hạn thích ứng rộng với các điều kiện sinh thái khó khăn do biến đổi khí hậu tại Tây Nguyên” nhằm giải quyết có cơ sở khoa học các vấn đề nêu ra ở trên.
