Tóm tắt Luận án Tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt Nam
- Người chia sẻ :
- Số trang : 13 trang
- Lượt xem : 8
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Lý thuyết và thực tiễn đã chứng minh rằng, tự do hóa thương mại có những tác động trực tiếp và gián tiếp tới ô nhiễm môi trường của một ngành và một quốc gia. Nghiên cứu thực nghiệm ở nhiều nước trên thế giới như Hettige và cộng sự (1996), Edward (1993), Mani và Wheeler (1999), Dean (2002), Ederington (2004), Mani và Jha (2005), Guminlang (2011) đã cho thấy, không phải mọi tác động là như nhau mà có sự khác nhau xuất phát từ đặc thù riêng của từng ngành và từng quốc gia. Nhưng tổng hợp lại thì tác động tiềm tàng của tự do hóa thương mại đến môi trường gồm: (i) tự do hóa thương mại tác động tới các quy định môi trường; (ii) tự do hóa thương mại tác động tới môi trường thông qua sự chuyên môn hóa, chuyển dịch cơ cấu trong ngành; (iii) tự do hóa thương mại tác động tới môi trường thông qua kênh đầu tư, chuyển giao công nghệ; (iv) tự do hóa thương mại tác động tới môi trường bằng hiệu ứng trực tiếp. Do vậy, cần có những công trình nghiên cứu tiếp theo ở mức độ chi tiết hơn những kênh nào cũng như những yếu tố nào diễn ra tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường và mức độ tác động của nó đến các ngành và các doanh nghiệp. Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới – WTO (World Trade Organization) từ năm 2007. Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hầu hết các nước trên thế giới. Tự do hóa thương mại trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, có tác động trực tiếp và nhanh nhất đến thương mại quốc tế và đầu tư, từ đó lan tỏa đến sản xuất trong nước, tạo việc làm và giảm nghèo. Ngoài ra, tự do hóa thương mại còn có những tác động vô hình khác như làm gia tăng nhận thức của xã hội về nhu cầu hội nhập, đổi mới mạnh mẽ thể chế nhà nước, hệ thống văn bản pháp luật ngày càng đồng bộ. Tuy nhiên, Việt Nam không thể né tránh những vấn đề thương mại và suy thoái môi trường trong hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và trong WTO nói riêng. Vấn đề thương mại và môi trường trong các Hiệp định của WTO; hiệp định thương mại song phương, đa phương được thể hiện dưới dạng tiêu chuẩn về quy trình sản xuất và chế biến, các quy định về nhãn mác, các hệ thống phí, lệ phí liên quan đến môi trường đối với các sản phẩm xuất nhập khẩu (MUTRAP, 2015). Công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành có ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng toàn nền kinh tế của Việt Nam vì đây là ngành lớn, đóng góp hơn 70% tỷ trọng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa, đóng góp khoảng 18% vào GDP của cả nước. Khu vực sản xuất công nghiệp từ giai đoạn năm 2007-2011 chịu ảnh hưởng lớn của sự tăng giá đầu vào, lạm phát, suy thoái kinh tế thế giới, khủng hoảng nợ công khiến mức tăng trưởng chậm lại và hiệu quả thấp. Giai đoạn 2011-2015, sản xuất công nghiệp từng bước phục hồi; chỉ số phát triển công nghiệp 2015 tăng khoảng 10%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu công nghiệp tăng mạnh. Cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp đã dần chuyển dịch theo hướng tích cực. Công nghiệp khai khoáng giảm từ 37,1% năm 2011 xuống khoảng 33,1% năm 2015; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng từ 50,1% năm 2011 lên 51,5% năm 2015. Sau 10 năm gia nhập WTO, độ mở nền kinh tế Việt Nam đã tăng từ 144% năm 2007 lên 173% năm 2016 (Bộ Công Thương, 2017). Như vậy, tự do thương mại đã thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong những năm qua. Nhưng sự phát triển đó có tác động đến chất lượng môi trường hay không? Đã có những nghiên cứu thực địa chứng minh rằng, có mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại và ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (Hettige và cộng sự, 1996) hay (Dean, 2002; Edwards, 1993; Ederington và cộng sự, 2004; Nguyen Duy Loi, 2010).
