Luận án Nghiên cứu thực trạng và hiệu quả can thiệp truyền thông giáo dục sức khỏe đối với bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại xã Kiến thiết và Kiền bái, TP Hải phòng
- Người chia sẻ :
- Số trang : 213 trang
- Lượt xem : 8
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu thực trạng và hiệu quả can thiệp truyền thông giáo dục sức khỏe đối với bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại xã Kiến thiết và Kiền bái, TP Hải phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là bệnh thường gặp và có xu hướng gia tăng do sự già đi của dân số và sự gia tăng của các yếu tố nguy cơ. Năm 1990 tử vong do BPTNMT đứng hàng thứ 6, dự báo đến năm 2020 sẽ đứng thứ 3 trong tất cả các nguyên nhân tử vong trên toàn cầu [89]. Năm 2016 trên thế giới ước tính 251 triệu người mắc BPTNMT, năm 2015 khoảng 3,17 triệu người chết vì bệnh này trong đó 90% số tử vong ở các nước có thu nhập thấp và trung bình [173]. BPTNMT thường xuất hiện sau 40 tuổi, các yếu tố nguy cơ của bệnh là do hút thuốc, ô nhiễm môi trường, nhiễm khuẩn, di truyền, tuổi cao. kèm theo tỷ lệ mắc bệnh ngày càng tăng, tiến triển kéo dài, chi phí khám và chữa bệnh cao, hậu quả của bệnh nặng nề vì thế BPTNMT thực sự là một vấn đề sức khỏe [70] [72]. Triệu chứng cơ năng chính của bệnh là khó thở, ho, khạc đờm mạn tính, các biểu hiện này rất dễ bị nhầm lẫn với các bệnh hô hấp khác. Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc BPTNMT chưa được chẩn đoán khá cao [40] [41] [100] [122] [135]. Đo chức năng thông khí là phương pháp cơ bản để chẩn đoán BPTNMT, tất cả những người 40 tuổi trở lên có biểu hiện các triệu chứng lâm sàng trên hoặc phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ đều nên đi khám và đo chức năng thông khí để phát hiện bệnh [6] [17] [70] [71]. Các biện pháp can thiệp trên người mắc BPTNMT tập trung chủ yếu vào ngăn chặn các yếu tố nguy cơ, phục hồi chức năng hô hấp, dùng thuốc giãn phế quản . Việc quản lý phòng ngừa các yếu tố nguy cơ sẽ làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, điều trị dự phòng nhằm giảm tần suất các đợt cấp giúp người bệnh ít phải nằm viện góp phần giảm gánh nặng bệnh tật và chi phí điều trị. Ở nước ta hầu hết các đề tài nghiên cứu can thiệp trên người mắc BPTNMT được thực hiện tại các bệnh viện. Do điều kiện chưa cho phép triển khai những phòng tập có trang thiết bị hiện đại một cách rộng rãi thì tự tập thể dục, có chế2 độ ăn phù hợp và phục hồi chức năng hô hấp tại nhà là lựa chọn tốt. Kiến thức của người dân nói chung và của người bệnh nói riêng về BPTNMT còn rất hạn chế, điều này kéo theo thái độ và thực hành không đúng về BPTNMT [18]. Can thiệp truyền thông giáo dục sức khỏe nhằm mục đích nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành cho người dân, người bệnh và nhân viên y tế để cùng phối hợp ngăn chặn căn bệnh nguy hiểm này
