Tóm tắt Luận án Nghiên cứu xác định các dạng asen vô cơ trong nước ngầm bằng phương pháp điện di mao quản sử dụng Detector độ dẫn không tiếp xúc

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 27 trang
  • Lượt xem : 9
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu xác định các dạng asen vô cơ trong nước ngầm bằng phương pháp điện di mao quản sử dụng Detector độ dẫn không tiếp xúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Phương pháp điện di mao quản đã và đang được phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Phương pháp này có ưu điểm là thiết bị tương đối đơn giản, chi phí thấp và đặc biệt có thể chế tạo thu nhỏ phục vụ cho mục đích phân tích tại hiện trường. Ngoài ra, thiết bị điện di mao quản có thể tích hợp với nhiều loại detector khác nhau như detector quang phổ hấp thụ phân tử (UV-Vis), huỳnh quang, khối phổ, điện hóa (đo dòng, đo thế và độ dẫn),. nên sẽ có khả năng nhận dạng và định lượng các chất một cách khá chọn lọc. Phương pháp điện di mao quản đã được ứng dụng từ khá lâu để phân tích các hợp phần sinh học như axit amin, protein,. và gần đây có rất nhiều ứng dụng trong phân tích các hợp chất hữu cơ và cô cơ [16, 43, 52, 91]. Trong hơn một thập kỷ vừa qua, một kỹ thuật phát hiện mới dùng cho phương pháp điện di mao quản đã được công bố là detector độ dẫn không tiếp xúc (CCD) [54, 55, 82, 103]. Detector này đơn giản hơn detector đo quang nói chung, ít phức tạp và chi phí tương đối thấp so với kỹ thuật plasma cảm ứng ghép nối với khối phổ (ICP-MS). Detector này cũng cho độ nhạy tương đối tốt với hầu hết các hợp phần vô cơ, hơn nữa, các ứng dụng của nó không giới hạn chỉ cho các hợp phần vô cơ mà còn ứng dụng khá nhiều cho các hợp phần hữu cơ và sinh học. Phương pháp điện di mao quản với detector độ dẫn không tiếp xúc kiểu kết nối tụ điện (CE-C4D) cũng đã được áp dụng thành công cho việc phân tích các kim loại nói chung [16, 52, 61] và phân tích riêng rẽ các dạng selen [60] và crom [59] nói riêng. Điều này mở ra khả năng ứng dụng của phương pháp trong việc phân tích tổng hàm lượng hoặc riêng rẽ các dạng của các nguyên tố nói chung và phân tích asen trong nước ngầm nói riêng – một vấn đề hiện đang là mối quan tâm không chỉ của Việt Nam mà còn của nhiều quốc gia trên thế giới [8, 18, 31,2 41, 62, 66, 83]. Việc phân tích riêng rẽ các dạng asen (bao gồm các dạng asen vô cơ As(III), As(V) và asen hữu cơ như axit monometylasonic (MMA), axit dimetylasinic (DMA),.) rất có ý nghĩa khi đánh giá khả năng tác động của ô nhiễm asen trong nước ngầm tới sức khỏe của người sử dụng vì các dạng asen vô cơ trong tự nhiên chiếm tỷ lệ cao hơn, đồng thời cũng có độc tính cao hơn so với các dạng asen hữu cơ [41, 83]. Từ đó, có thể giúp các nhà quản lý đề ra các biện pháp nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu nguy cơ phơi nhiễm asen của người dân do sử dụng nguồn nước ngầm bị ô nhiễm asen.