Tóm tắt Luận án Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Hải Dương

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 27 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Trong những năm vừa qua, toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại đã tạo ra nhiều thay đổi to lớn về môi trường kinh tế quốc tế. Các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia đã mở rộng lãnh thổ hoạt động của mình và ngày càng có nhiều ảnh hưởng đến các quốc gia trên thế giới. Do vậy, để có thể tồn tại và đứng vững ngay trên “sân nhà” đòi hỏi các doanh nghiệp không những phải nâng cao năng lực cạnh tranh so với doanh nghiệp (DN) khác trong nước mà còn cả với các DN nước ngoài. Trong nền kinh tế thị trường các DN không có khả năng cạnh tranh sẽ bị thay thế bằng các DN có năng lực tốt hơn, điều này cho thấy chỉ có các DN có năng lực cạnh tranh (NLCT) cao mới có thể tồn tại và phát triển. Trong những năm qua, Chính phủ không ngừng hoàn thiện các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều này được nêu rõ trong Nghị định 90/2001/NĐ-CP “Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước”. Tính đến tháng 1 năm 2015 cả nước có trên 500 nghìn DNNVV, chiếm tới 98% số lượng DN của cả nước, trong đó số lượng DN trong lĩnh vực công nghiệp chiếm từ 29 – 30%. Khu vực này đã đóng góp khoảng 26% tổng thu nhập của nền kinh tế và 31% giá trị sản xuất công nghiệp. Ngoài ra, DNNVV còn đóng góp đáng kể cho kim ngạch xuất khẩu, đồng thời tạo công ăn việc làm cho hơn 10 triệu lao động (chiếm 27% lực lượng lao động đang làm trong các ngành kinh tế) (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 2016). Năm 2017, Quốc hội đã thông qua Luật số 04/2017/QH14 hỗ trợ DNNVV đây là một lợi thế để tỉnh Hải Dương có căn cứ triển khai hỗ trợ các DNNVV trên địa bàn tỉnh nhằm nâng cao NLCT cho các DN. Sự phát triển vượt bậc về số lượng các DNNVV đã khẳng định sức sống mãnh liệt của khu vực kinh tế được đánh giá là năng động và hiệu quả nhất hiện nay. Những đóng góp của họ cho sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước rất đáng kể, trong đó có vai trò “bà đỡ” của Nhà nước cũng như sự nỗ lực vươn lên của chính các DN. Tuy nhiên, theo Tổng cục Thống kê (2016), khoảng 20% số DNNVV đang hoạt động có thể trụ được trong cạnh tranh, 60% số DNNVV đang phải cố gắng để tồn tại, 20% số DNNVV đã bị giải thể, ngừng hoạt động Hiện nay, máy móc, thiết bị đang được sử dụng ở các DNNVV chỉ có 10% được đánh giá là hiện đại, 38% trung bình và 52% là lạc hậu và rất lạc hậu. Năm 2015 có 39.056 DN gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động, tăng 2% so với năm 2014, trong đó gần 94% số DN có vốn dưới 10 tỷ đồng (Lê Văn Kiên, 2016). Nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm trong hoạt động kinh doanh của DNNVV được các chuyên gia kinh tế đánh giá là do hoạt động manh mún, quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, khó tiếp cận thị trường, nguồn vốn và còn hạn chế trong năng lực lãnh đạo, năng lực quản trị. Đa số các chủ DN, ngay cả những người có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo chuyên sâu về kiến thức kinh tế và quản trị DN, các lớp tập huấn về pháp luật trong kinh doanh., điều này có ảnh hưởng lớn đến việc lập chiến lược phát triển, định hướng kinh doanh và quản lý, phòng tránh các rủi ro pháp lý của các DN Việt Nam. Với đặc thù nhỏ gọn, đối tượng này dễ bị tổn thương khi môi trường kinh doanh bất lợi. Cũng nằm trong bối cảnh chung của cả nước, trong vài2 năm trở lại đây, số DNNVV, ngừng hoạt động, phá sản tăng nhiều. Nguyên nhân là do các DN này không có khả năng cạnh tranh được với các DN lớn.