Đồ án Khảo sát các loại tuốc bin cánh dẫn và thiết kia tuốc bin hướng trục

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 79 trang
  • Lượt xem : 11
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • Thuyet minh.doc
  • BO DIEU CHINH.dwg
  • BO TRI MAY PHAT DIEN.dwg
  • CO CAU QUAY BANH HUONG DONG.dwg
  • KHOP NOI.dwg
  • LOI NOI DAU.doc
  • Nhiem vu.doc
  • Slide.ppt
  • TONG THE.dwg
  • TRUC.dwg
  • XY LANH CHINH.dwg
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Khảo sát các loại tuốc bin cánh dẫn và thiết kia tuốc bin hướng trục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Hiện nay, thủy điện nhỏ đã được xây dựng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Nguồn thủy điện nhỏ rất ít hoặc không làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Ngoài mục đích cấp điện thủy điện nhỏ còn các mục đích khác như cấp nước, chống lụt, tưới tiêu, giải trí Ở Việt Nam, điện khí hóa nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng trong việc phát triển nông thôn, miền núi. Các làng, bản xa xôi không thể lấy điện từ mạng lưới trung tâm được vì chi phí truyền tải cao. Mặt khác các máy phát điện chạy bằng dầu không đáp ứng điều kiện kinh tế do giá thành cao. Giải pháp hợp lý cho vấn đề này là xây dựng những trạm thủy điện nhỏ, cực nhỏ là hợp lý nhất. Việt Nam với tổng diện tích lãnh thổ là 331.690 Km2 với ba phần tư là vùng đồi núi, địa hình chia cắt mạnh mẽ. Do đó trên lãnh thổ Việt Nam mạng lưới sông suối tương đối dày, hiện nay nước ta có 124 hệ thống sông với 2860 con sông có chiều dài lớn hơn 10 Km. Có thể kể một số con sông lớn như : Sông Hồng, sông Đồng Nai, sông Thái Bình, sông Đà, sông Lô, sông Thao và sông Sê San. Trên các sông này đã có hơn 10 điểm thủy điện lớn đang được xem xét và xây dựng với công suất lắp máy từ 300 MW – 3000 MW Trước năm 1945, chỉ có Tà Sa, Na Ngần với tổng công suất 1440 KW. Sau năm 1954, một số trạm cỡ trung bình được xây dựng như Thác Bà (108 MW) và Đa Nhim (160 MW). Từ năm 1959, một kế hoạch dài hạn qui hoạch thủy năng ở các hệ thống sông ở Việt Nam đã được tiến hành nghiêng cứu. Trên cơ sở đó đã đưa ra nhiều điểm thủy điện có tính khả thi. Năm 1974, một công ty Anh đã xác định được 30 vị trí trạm với công suất từ 100 KW đến 3750 KW ở phía Nam. Năm 1980, cũng đã định ra được 300 điểm thủy điện nhỏ với tổng công suất là 23 MW ở phía Bắc