Luận án Thực trạng bệnh sốt xuất huyết dengue và đánh giá hiệu quả mô hình can thiệp dựa vào cộng đồng ở Tây nguyên (2005 – 2014)

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 197 trang
  • Lượt xem : 9
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Thực trạng bệnh sốt xuất huyết dengue và đánh giá hiệu quả mô hình can thiệp dựa vào cộng đồng ở Tây nguyên (2005 – 2014), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Sốt xuất huyết Dengue là bệnh truyền nhiễm cấp tính gây dịch do vi rút Dengue gây nên, véc tơ chính truyền bệnh dịch này là muỗi Aedes aegypti. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trước năm 1970 chỉ có 9 quốc gia báo cáo có bệnh SXHD, con số này đã tăng gấp 4 lần vào năm 1995. Bệnh hiện lưu hành ở trên 100 nước thuộc khu vực có khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới vùng Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương, Châu Mỹ, Châu Phi với khoảng 2,5 tỷ người sống trong vùng nguy cơ dịch [1]. Tại Việt Nam, sốt xuất huyết Dengue cũng đang là vấn đề y tế công cộng rất lớn và là một trong những bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ mắc và tử vong cao ở nước ta . Dịch bệnh ghi nhận ở cả bốn khu vực Bắc, Trung, Nam và Tây Nguyên, nhất là ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng Bắc bộ và vùng ven biển miền Trung [2]. Từ năm 1999, đã có Chương trình phòng, chống sốt xuất huyết quốc gia hoạt động rất tích cực, nhưng số mắc bệnh dịch này trung bình mỗi năm vẫn không ổn định. Tỷ lệ mắc sốt xuất huyết/100.000 dân có xu hướng tăng, từ 32,5 năm 2000 (24.434 ca) lên 120,00 năm 2009 (105.370 ca), và 78/100.000 dân năm 2011 (69.680 ca) [3]. Ở khu vực Tây Nguyên, vi rút Dengue lưu hành quanh năm. Một số năm có dịch lớn là: 1983; 1987; 1988; 1991; 1995; 1998; 2004 với số mắc từ 54,80 – 553,38/100.000 dân, số chết từ 0,08 – 1,34/100.000 dân, giữa các năm có dịch lớn, hàng năm dịch bệnh xảy ra rải rác, khu trú và phát triển mạnh hơn ở thành phố, thị xã, thị trấn nơi đông dân cư [4], [5], [6]