Luận án Nghiên cứu ứng dụng vi phẫu thuật giải ép thần kinh trong điều trị đau dây V

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 157 trang
  • Lượt xem : 8
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_nghien_cuu_ung_dung_vi_phau_thuat_giai_ep_than_kinh.pdf
  • nguyenduymanh-tt.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu ứng dụng vi phẫu thuật giải ép thần kinh trong điều trị đau dây V, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Đau dây thần kinh số V (đau dây V, trigeminal neuralgia) được định nghĩa là tình trạng đau xảy ra ở một hay nhiều vùng chi phối cảm giác của dây thần kinh số V. Đau có tính chất cơn đột ngột, thường một bên, đau dữ dội, ngắn, cảm giác đau nhói như điện giật, hay tái phát từng đợt [1],[2]. Một số tác giả gọi tên khác là ‘‘Tic douloureux’’ hay ‘‘Fothergill’’[3],[4]. Tỷ lệ mắc bệnh 4 đến 5 người/ 100000 dân/năm [5]. Đau dây V nguyên phát (idiopathic) chiếm 90% các loại đau dây V [1],[5], trước kia gọi là vô căn (không có nguyên nhân),ngày nay nguyên nhân chính được cho là do xung đột mạch máu-thần kinh. Khác với đau dây V thứ phát: do khối u, dị dạng mạch, sau can thiệp vùng hàm-mặt. Nghiên cứu này nói về đau dây V nguyên phát. Đau dây V được miêu tả là rất ‘‘ghê gớm’’, và thường được ví là loại đau khủng khiếp nhất mà con người biết đến [6]. Cơn đau làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và công việc của bệnh nhân. Hiện nay, có nhiều phương pháp điều trị đau dây V [7],[8]. Ngoài điều trị thuốc, các can thiệp vào hạch Gasser ít nhiều mang tính phá hủy, di chứng tê mặt cao. Áp dụng cho bệnh nhân sức khỏe kém, bệnh mạn tính nặng không mổ được, hoặc không đồng ý mổ. Phương pháp can thiệp không phá hủy là vi phẫu thuật giải ép thần kinh (microvascular decompression/MVD) hay còn gọi là phẫu thuật Jannetta có hiệu quả rất cao giảm đau và giảm tê mặt. Phương pháp hay áp dụng cho người có đủ sức khỏe mổ, bệnh nhân không quá cao tuổi. Cơ sở của mổ giải ép thần kinh là các tác giả nhận thấy đa phần có nguyên nhân mạch máu chèn ép thần kinh V vùng góc cầu-tiểu não (chiếm hơn 90% đau dây V nguyên phát). Mổ giải ép hiện nay trở thành một phương pháp điều trị chính của đau dây V, đem lại hiệu quả cao về tỷ lệ giảm đau và hạn chế tỷ lệ tái lại [9],[10],[11]. Việc áp dụng biện pháp điều trị phụ thuộc vào chỉ định và điều 2 kiện sẵn có cơ sở y tế. Mổ giải ép dây V được biết đến lần đầu tiên nhờ Gardner năm 1959 [12] [13], sau đó phổ biến rộng rãi từ năm 1967 khi Jannetta công bố số lượng lớn bệnh nhân [14]. Tác giả đã kế thừa và phát triển các kiến thức lâm sàng, sinh lý bệnh (lý thuyết xung đột mạch máu- thần kinh), và các tiến bộ khoa học (sử dụng kính vi phẫu), các tiến bộ gây mê hồi sức, đã giảm thiểu tối đa các biến chứng, mang lại lợi ích cao cho bệnh nhân. Phẫu thuật Jannetta đã được phát triển và áp dụng rộng rãi nhiều trung tâm Phẫu Thuật Thần Kinh trên thế giới từ những năm 80 thế kỷ XX và áp dụng tại Việt Nam cuối những năm 90 đầu năm 2000 ở hai trung tâm lớn TP Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đã có một số kết quả ban đầu được công bố cho thấy kết quả giảm đau rất tốt. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ về chỉ định, quy trình, những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng kỹ thuật mổ này tại Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài : ‘‘Nghiên cứu ứng dụng vi phẫu thuật giải ép thần kinh trong điều trị đau dây V’’. Nhằm mục tiêu: 1. Xây dựng quy trình vi phẫu thuật giải ép thần kinh trong điều trị đau dây V. 2. Đánh giá kết quả vi phẫu thuật giải ép thần kinh trong điều trị đau dây V.